TS Nguyễn Thành Sơn:- Tôi không biết cụ thể những giấy phép nào đã được bán. Nhưng, việc nhiều giấy phép khai khoáng đã được bán
cho doanh nghiệp Trung Quốc, như anh Nguyễn Văn Thuấn- Cục trưởng Cục Địa chất Khoáng sản nói, chắc chắn là có thật. Riêng các giấy phép cấp
cho TKV, hay
cho các doanh nghiệp nhà nước khác thì không thể nào bị bán c
ả
PV: - Theo ông, tại sao lại có việc doanh nghiệp Việt đứng tên rồi bán giấy phép khai thác khoáng sản cho doanh nghiệp Trung Quốc như vậy. Theo luật, việc này có được phép không và phải gọi hành vi này là gì, thưa ông?
TS Nguyễn Thành Sơn: -Tất nhiên, việc đứng tên xin cấp giấy phép hoạt động khoáng sản rồi bán giấy phép theo kiểu “lúa non” là vi phạm Luật Khoáng sản. Việc chuyển nhượng giấy phép hoạt động khoáng sản đã được qui định trong các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản. Chẳng có luật nào, kể cả Luật doanh nghiệp
cho phép hoạt động theo kiểu “ma” như vậy. Tuy nhiên, những qui định về chuyển nhượng giấy phép hoạt động khoáng sản còn nhiều sơ hở và bất cập, dễ bị lợi dụng.
Rất tiếc, những người dự thảo nghị định không am hiểu thực tế, nhưng đã không tham khảo ý kiến của các chuyên gia, chỉ biết đưa ra các qui định chung chung để khẳng định cái “quyền” từ phía quản lý, nhưng lại không có cơ chế giám sát thực hiện. Đặc biệt là hai vấn đề “cấp phép” và “ đấu giá”. Còn nhiều vấn đề cần phải bàn lại về những nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản.
PV: - Một tờ báo lớn dẫn lời lãnh đạo Cục địa chất khoáng sản (Bộ TNMT) cho biết, có đến 60% doanh nghiệp Việt bán giấy phép cho doanh nghiệp nước ngoài mà các cơ quan chức năng không biết, tại sao lại có chuyện như vậy, thưa ông?
TS Nguyễn Thành Sơn: - Cơ quan “chức năng” ở đây trước hết là Bộ TNMT và các sở TNMT. Việc có đến
60% doanh nghiệp bán giấy phép mà các cơ quan “chức năng” không biết thực ra thì cũng dễ hiểu. Trước hết là do buông lỏng quản lý từ khâu “cấp” đến khâu giám sát thực hiện. Những giấy phép được “cấp” một cách minh bạch (tất nhiên là rất khó khăn và kéo dài với đầy đủ mọi “xem xét”, “giải trình”) như những giấy phép cấp
cho TKV thì chẳng cần các “cơ quan chức năng” giám sát cũng sẽ được thực hiện nghiêm chỉnh và chắc chắn không có cái nào bị bán cả.
Phần lớn các giấy phép do các địa phương cấp. Vì vậy, con số “60%” giấy phép bị bán là rất khiêm tốn. Con số này chỉ có thể giải thích là các giấy phép được “cấp” theo kiểu không minh bạch
cho các đối tượng không có năng lực về kinh tế cũng như chuyên môn, hay cấp theo các đề án được “vẽ” ra
cho “phù hợp” với những tiêu chí, tiêu chuẩn của “cơ quan chức năng”. Sau khi nhận được giấy phép một cách không minh bạch, đương nhiên chủ giấy phép sẽ phải nhanh chóng triển khai và “hoàn vốn” bằng cách dễ nhất là bán
cho người ngoài. Các doanh nghiệp (chủ giấy phép) sẽ thu được mức chênh lệch khá lớn (có thể lên tới hàng triệu đô la một giấy phép).
PV: -Theo ông, mục đích của các doanh nghiệp Trung Quốc khi mua lại giấy phép này là gì và họ sẽ được lợi gì, thưa ông?
TS Nguyễn Thành Sơn: - Các doanh nghiệp, doanh nhân Trung Quốc luôn sẵn sàng mua theo kiểu “chui” (thỏa thuận ngầm) và triển khai giấy phép bằng cách núp danh người bán để qua mặt các “cơ quan chức năng”, vừa trốn được thuế, vừa lách được mọi qui định.Trong khi đó, việc kiểm tra giám sát sau cấp phép thì lại bị coi nhẹ và quá chủ quan giống như “đười ươi giữ ống”.
PV: - Nếu vậy thì Việt Nam có bị thiệt hại gì, thưa ông?
TS Nguyễn Thành Sơn:- Hậu quả đương nhiên là tài nguyên khoáng sản bị bán rẻ, bị khai thác một cách vơ vét tàn bạo, và môi trường bị xâm hại (không có ai chịu trách nhiệm).
PV: - Trên thực tế, vấn nạn xuất khẩu lậu khoáng sản đã được "vạch mặt chỉ tên". Tuy nhiên, sau nhiều năm, tình trạng đó vẫn tiếp diễn. Vậy phải giải thích điều này thế nào, thưa ông?
TS Nguyễn Thành Sơn: - Tình trạng đó vẫn cứ tiếp diễn vì 3 lý do cơ bản. Trước hết, là do những bất cập ở tầm quản lỹ vĩ mô về tài nguyên khoáng sản. Tư duy dựa vào xuất khẩu TNKS để tăng GDP là sai và là con dao hai lưỡi. VN rất nghèo về TNKS, có nhiều chủng loại TNKS, nhưng rất manh mún, khó khai thác, không có công nghệ chế biến hiệu quả (kể cả than và bauxite), và phần lớn TNKS không có nhu cầu sử dụng trong nước (ngoài than, dầu, khí, nước ngọt, cát, đá, sỏi).
Trong khi đó, một số người vẫn đưa ra các thông tin sai lệch (“bốc thơm”) về TNKS ở VN làm
cho các nhà quản lý “tưởng bở”.
Thứ hai, về định hướng trong qui hoạch phát triển: đối với TNKS phải trọng “cầu” hơn trọng “cung”, “cầu” phải là cơ sở để qui hoạch phát triển “cung”. Các qui hoạch phát triển về TNKS của VN đều theo hướng “nhiệm kỳ”, có gì thì cứ tranh thủ “bới” lên để “ăn liền” (xuất khẩu).
Thứ ba, tình trạng này còn thể hiện sự bất lực trong quản lý vi mô (liên quan đến các cấp quản lý hành chính). Các “con voi” khoáng sản cứ liên tục “chui lọt” qua rất nhiều “lỗ kim” như: thuế, hải quan, biên phòng, cảng vụ, cảnh sát biển, cảnh sát kinh tế, cảnh sát môi trường v.v.
PV:- Vậy có mối liên quan gì giữa hai thực trạng xuất lậu khoáng sản (chủ yếu sang Trung Quốc) và việc doanh nghiệp Trung Quốc đứng đằng sau việc khai thác khoáng sản không? Có ý kiến cho rằng, mục đích đằng sau những thương vụ này là nhằm thao túng, kiểm soát ngành khai thác khoáng sản của Việt Nam, quan điểm của ông như thế nào?
TS Nguyễn Thành Sơn: Tôi không nghĩ, đằng sau những thương vụ này là nhằm thao túng hay kiểm soát ngành khai khoáng của VN, chưa đến mức độ như vậy. Nhưng “lợi ích nhóm” và “tư duy nhiệm kỳ” là rõ. Hai thực trạng bán giấy phép và xuất khẩu lậu khoáng sản về bản chất chỉ là một, đều có mẫu số chung giống nhau là do chúng ta hành xử với TNKS theo kiểu “chộp giật”, rất thiếu trách nhiệm với tương lai, rất không bền vững đối với hiện tại.
Còn trả lời
cho câu hỏi “chúng ta phải làm gì?” thì rất dễ, ai cũng có thể nói được, nên tôi cũng chẳng cần phải nói. Câu hỏi quan trọng hơn là “chúng ta phải làm như thế nào?”. Lẽ ra, để trả lời
cho câu hỏi này thì phải nghiên cứu, phải học, phải tìm hiểu cụ thể, nhưng tôi xin phép trả lời ngắn ngọn dễ hiểu là phải minh bạch về TNKS.
Xin cảm ơn ông!