Môi trường » Nước
Nhân Ngày nước thế giới (22/3): Quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng
(15:47:28 PM 19/03/2014)Tuy vậy, bản chất của sự tham gia của cộng đồng trong quản lý nước có sự khác biệt tương ứng với điều kiện kinh tế-xã hội, môi trường thể chế chính trị và tổ chức xã hội của đất nước ở từng giai đoạn khác nhau.
Ảnh: IE
* Xu hướng xã hội hóa
Theo kết luận của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Bảo vệ Con người và Thiên nhiên Việt Nam (PanNature), kể từ khi nước ta bắt đầu quá trình chuyển đổi kinh tế (quá trình đổi mới) vào năm 1986, Chính phủ đã liên tục đề cao sự tham gia và đóng góp của cộng đồng và các ngành trong mọi lĩnh vực phát triển của đất nước. Kể cả khai thác, sử dụng, xử lý, cung cấp và bảo vệ nguồn nước. Điều này được biết đến dưới khái niệm “xã hội hóa” như là một phương châm hành động, với khẩu hiệu “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nhưng vấn đề chuyển giao đầy đủ trách nhiệm quản lý nước cho cộng đồng thì vẫn chưa được xem xét thấu đáo.
Quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng được chính thức đề xuất trong Chiến lược Quốc gia về Tài nguyên nước đến năm 2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 81 ngày 14/4/2006. Chiến lược này nhìn nhận sự tham gia của cộng đồng là một biện pháp chính đảm bảo việc quản lý và sử dụng tài nguyên nước bền vững. Trong đó đã nhấn mạnh về huy động sự tham gia của người dân, nhằm bảo vệ tài nguyên nước, nhất là ở các thành phố lớn, vùng đông dân cư và các vùng đang bị ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng; xây dựng các cơ chế phù hợp huy động khả năng của cộng đồng trở thành những người hỗ trợ chính cho việc giám sát và bảo vệ nguồn nước, ngăn chặn các hành vi tiêu cực làm cho nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái; tăng cường sự tham gia của các tổ chức và cá nhân trong quá trình lập kế hoạch, kiểm tra và giám sát việc thực hiện những kế hoạch lưu vực sông và dự án về tài nguyên nước.
Gần đây, Chính phủ đã cho thực hiện một số thay đổi có tính chiến lược để chuyển giao quyền quản lý thủy lợi cho các công ty thủy nông, nhóm những người sử dụng nước ở cơ sở. Vì vậy, nhiều loại thể chế cộng đồng về quản lý và cung cấp nước đã nổi lên. Với xu hướng “xã hội dân sự” đang phát triển, sẽ có nhiều tổ chức cộng đồng hơn ra đời trong tương lai gần, chắc chắn xu hướng này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ các cộng đồng tham gia vào các hoạt động quản trị xã hội và quản lý tài nguyên. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về thực hiện Chương trình nước sạch, cộng đồng địa phương đã đóng góp tới 44% tổng đầu tư cho Chương trình này.
* Nước là một loại hàng hóa
Sự phát triển của các mô hình tiên tiến về quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng (coi tài nguyên nước là một loại hàng hóa), là quá trình thích nghi đáp ứng với sự thay đổi ngày càng tăng của nền kinh tế, định hướng theo cơ chế thị trường. Trong đó nước là một nguồn tài nguyên có giới hạn, được chấp thuận rộng rãi như là một loại hàng hóa thương mại, phục vụ cho mục đích tưới tiêu thủy lợi, phát điện và cung cấp cho sinh hoạt.
Việt Nam bắt đầu áp dụng phương pháp quản lý thủy lợi có sự tham gia của cộng đồng từ những năm 1990, sau khi Chính phủ chính thức quyết định chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, thông qua chính sách “Khoán 10”. Quản lý thủy lợi có sự tham gia của cộng đồng là phương pháp hiệu quả quản lý tài nguyên nước, bởi cộng đồng cùng hưởng lợi sẽ tham gia với tư cách là người sử dụng nước, người quản lý và bảo vệ nguồn nước, nhất là đối với các hệ thống tưới tiêu quy mô nhỏ. Cụ thể như ở Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Bình Định...Về mặt thể chế tổ chức, có 3 mô hình quản lý thủy lợi có sự tham gia của cộng đồng là tổ chức nông dân và nhà nước cùng quản lý; chia sẻ quản lý giữa tổ chức nông dân và một tổ chức có liên quan đến nhà nước; mô hình tổ chức cộng đồng tự quản lý.
Đơn cử như mô hình chia sẻ quản lý giữa tổ chức nông dân và một tổ chức có liên quan đến nhà nước được thực hiện tại xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Ở xã này, các đội thủy lợi và tổ chức cộng đồng phối hợp với Hợp tác xã nông-lâm nghiệp để cung cấp dịch vụ thủy lợi cho các hộ gia đình có nhu cầu dùng nước. Hợp tác xã sở hữu và trực tiếp quản lý các công trình thủy lợi tại địa phương, bao gồm các tuyến kênh mương, trạm bơm nước và cung cấp dịch vụ thủy lợi. Hợp tác xã này hoạt động độc lập với công ty thủy nông, thông qua cơ chế tự chủ tài chính. Khoảng 80% phí thủy lợi thu được dùng để duy tu kênh mương nội đồng, 20% còn lại chi phí hành chính của hợp tác xã. Mặc dù hợp tác xã chịu trách nhiệm quản lý chung tất cả các công trình tưới tiêu, nhưng các hộ gia đình sử dụng nước cũng được giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý cụ thể. Họ được yêu cầu trông coi và bảo vệ các công trình tưới tiêu nội đồng, dẫn được vào ra theo lịch mùa vụ của địa phương. Cách làm này đảm bảo các công trình được duy tu, sửa chữa kịp thời, tránh lãng phí nguồn nước.
Tuy các mô hình quản lý tài nguyên nước có sự tham gia của cộng đồng đã chứng minh được những thành công ở cấp cơ sở. Nhưng khả năng mở rộng áp dụng và phát triển ở tầm quốc gia vẫn còn hạn hẹp, do có nhiều rào cản và khó khăn về thể chế, quản lý và kỹ thuật trong khi thực hiện. Về mặt pháp lý, tài nguyên nước ở nước ta hiện do nhà nước sở hữu và quản lý. Nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên nước lại được chỉ định cho tất cả mọi cá nhân và tổ chức. Quyền ra quyết định đối với tài nguyên này ở cấp cơ sở thuộc về các công ty cấp nước, xí nghiệp thủy nông và các ban quản lý rừng đầu nguồn, hồ chứa, đập thủy lợi...
Chính vì vậy, việc đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tài nguyên nước, đồng nghĩa với việc tăng cường quá trình phi tập trung hóa (hay phân cấp) quản lý xuống cơ sở. Điều trước tiên là nâng cao nhận thức cho đội ngũ xây dựng chính sách và ra quyết định, lập kế hoạch về tầm quan trọng của quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng. Mặt khác khuyến khích chính quyền địa phương hỗ trợ các sáng kiến quản lý tài nguyên nước có sự tham gia của cộng đồng, thông qua các lớp đào tạo, tập huấn, hội thảo, tư vấn và tham quan học tập các mô hình tiêu biểu...
Bạn cũng có thể quan tâm:
- Thanh Hóa: Nước sông Mã bất ngờ đổi màu đen kịt
- Cá chết nổi dày đặc hồ sinh thái Bàu Sen ở Bình Định
- Vụ gần 200 tấn cá chết: Chuyện gì xảy ra ở hồ Sông Mây?
- Thành phố Hồ Chí Minh vẫn loay hoay chống ngập
- Công bố chương trình bảo tồn nguồn nước tại 3 lưu vực sông quan trọng
- Công trình hồ chứa Sông Cái phát huy vai trò rất lớn trong quản lý tài nguyên nước tại NinhThuận
- Ngày Nước Thế giới năm 2022 có chủ đề “Nước ngầm - Biến nguồn tài nguyên vô hình thành hữu hình”
- Cảnh báo từ sông Mê Kông
- Vĩnh Phúc: Ngang nhiên đổ đất, lấn chiếm hồ ở thành phố Phúc Yên
Bài viết mới:
- Hội thảo đánh giá cuối kỳ dự án giảm thiểu tác động của đốt lộ thiên và sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp (23/11/2024)
- Cây Đa cổ thụ -Nơi treo cờ Cộng sản đầu tiên vùng ven Hà Nội được vinh danh Cây Di sản Việt Nam (20/11/2024)
- Lãnh đạo VACNE tham gia tọa đàm về luật thủ đô năm 2024 (20/11/2024)
- Hai cây cổ thụ vùng ven đô Thăng Long được vinh danh Cây Di sản Việt Nam (20/11/2024)
- Hội BVTN&MT Việt Nam cùng thống nhất hành động và triển khai các nhiệm vụ mới (20/11/2024)
- Lan tỏa thông điệp về phát triển bền vững đến người tiêu dùng qua từng vỏ hộp sữa (13/11/2024)
- Cây đầu tiên của huyện Đan Phượng được công nhận Cây Di sản Việt Nam (13/11/2024)
- Ăn gì để giúp bạn sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn? (11/11/2024)
- Đã chọn được một số đề tài xuất sắc trong cuộc thi “Sáng tạo xanh – Sống trong lành” (06/11/2024)
- Đoàn đại biểu VACNE tham dự Hội thảo “Đánh giá tác động và việc Giảm CO2” tại Hàn Quốc (28/10/2024)
Chất lượng không khí tại Long Xuyên (An Giang) ở mức rất có hại cho sức khỏe
(Tin Môi Trường) - Sáng 12/8, theo ứng dụng PAM Air (mạng lưới quan trắc môi trường không khí độc lập đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam, phủ rộng tại 63 tỉnh, thành phố; do Công ty Cổ phần Tư vấn và tích hợp công nghệ D&L quản lý), điểm đo tại Thư viện tỉnh An Giang, thành phố Long Xuyên có chất lượng không khí ở mức 270, rất có hại cho sức khỏe, ảnh hưởng tới sức khỏe tất cả người dân trong khu vực.
Ninh Thuận: Phát triển công nghệ tiền xử lý rác thải phù hợp với địa phương Việt Nam
(Tin Môi Trường) - “Phát triển công nghệ tiền xử lý rác thải phù hợp với địa phương Việt Nam” là một hợp phần thuộc "Dự án hỗ trợ thực nghiệm hóa công nghệ xanh tại nước ngoài năm 2024” trong khuôn khổ “Chương trình Giải pháp môi trường dẫn lối tương lai” của Viện Công nghệ Công nghiệp Môi trường Hàn Quốc (KEITI) - Bộ Môi trường Hàn Quốc. Công ty Cổ phần Kỹ thuật Tổng hợp Taesung – Hàn Quốc được KEITI lựa chọn là đơn vị thực hiện.
Việt Nam và Đan Mạch hợp tác thúc đẩy các nỗ lực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
(Tin Môi Trường) - Bộ Công Thương Việt Nam mới đây đã ban hành Bộ tài liệu hướng dẫn lập Kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giai đoạn 2020-2025 (Kế hoạch TKNL cấp tỉnh). Bộ tài liệu hướng dẫn này được soạn thảo với sự hỗ trợ của Chương trình Hợp tác Đối tác Năng lượng Việt Nam – Đan Mạch, sẽ giúp cho toàn bộ 63 tỉnh thành của Việt Nam thống kê việc sử dụng năng lượng và xây dựng kế hoạch hành động của địa phương nhằm triển khai các hoạt động về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế):Thực hành truyền thông giảm nhựa, xây dựng hành trình sống xanh
(Tin Môi Trường) - Theo thông tin từ Huyện đoàn A Lưới (tỉnh Thừa Thiên Huế), Dự án Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam (do Tổ chức WWF tài trợ) đến nay đã ghi nhận nhiều kết quả: Trong tổng số 20 cơ sở du lịch (bao gồm 16 homestay và 04 điểm du lịch sinh thái cộng đồng) đã ký cam kết tham gia thực hành giảm nhựa. Qua một thời gian triển khai, nhiều mô hình đã góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của khách du lịch, nhân rộng ra các tiểu thương, người mua hàng tại hai chợ Bốt Đỏ và A Lưới,…