(Tin Môi Trường) - Cơ chế giảm và bù đắp carbon đối với hàng không quốc tế (CORSIA) là một trong những nghiên cứu của Cục Hàng không Việt Nam về CORSIA. TMT giới thiệu cùng bạn đọc tóm tắt nghiên cứu (phần 2)
>>Kế hoạch giảm và bù đắp carbon đối với các chuyến bay quốc tế (CORSIA) của ICAO
2.ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THAM GIA THỰC HIỆN CORSIA ĐẾN MỘT SỐ YẾU TỐ CHỦ YẾU CỦA THỊ TRƯỜNG VẬN TẢI HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030
1. Tác động về chi phí
Năm 2015, theo đề án giảm phát thải CO2 trong hoạt động hàng không
của ngành hàng không, so sánh giữa RTK tổng quốc nội quốc tế và RTK
của quốc tế chiếm khoảng 62% và phát thải CO2 quốc tế cũng nằm trong khoảng 62% so với tổng quốc tế quốc nội, như vậy có thể khẳng định dự báo
của ngành HKVNVN đưa ra cũng gần tương tự với mức đánh giá trên toàn cầu
của ICAO.
Đến thời điểm này chưa thể dự báo chính xác được số quốc gia
tham gia giai đoạn thử nghiệm 2021-2026, cũng như số lượng các-bon cần bù đắp. Trong báo cáo kết quả nghiên cứu thuộc dự án “Xây dựng kế hoạch hành động giảm phát thải trong ngành hàng không”
của Cục HKVN đã dự báo lượng phát thải năm 2019-2020, chúng tôi dùng dữ liệu này để ước tính mức chi phí cao nhất mà ngành HKVN phải chi trả cho bù đắp các-bon trong giai đoạn thử nghiệm.
-Giả sử đến năm 2021 sẽ có tất cả các quốc gia đều
tham gia CORSIA và;
-Giả sử hệ số tăng trưởng
của ngành hàng không quốc tế là 100%, đây là mức tối đa nhất để ước tính lượng CO2
của ngành hàng không cần bù đắp được nêu trong bảng trên.
Chúng tôi lựa chọn 4 mức giá các bon khác nhau để tính toán chi phí Việt Nam phải trả cho
việc bù đắp cácbon. Đây là các mức giá các bon khác nhau trên thị trường quốc tế: 0,5 $, 4$, 8$ và 20$.
Từ kết quả trên cho thấy với giá 0,5$ cho một tấn các bon thì chi phí sẽ tăng từ 231.872$ từ năm 2021, đến năm 2026 (năm cuối
của giai đoạn thử nghiệm là 1.268.793$ và tăng đến 2.487.920$ vào năm 2030 (sau 3 năm áp dụng
của giai bắt buộc áp dụng).
-Với mức giá 4$ cho một tấn CO2, chi phí bù đắp tối đa năm 2021 là 1.854.972$, năm 2026 là 1.268.793$, năm 2030 là 19.903.356$.
-Với mức giá 8$ cho một tấn CO2, chi phí bù đắp tối đa năm 2021 là 3.709.944$, năm 2026 là 20.300.688$, năm 2030 là 39.806,712$.
-Với mức giá 20$ cho một tấn CO2, chi phí bù đắp tối đa năm 2021 là 9.274.860$, năm 2026 là 50.751.720$, năm 2030 là 99.516.780$.
Như vậy, qua bảng cho thấy tổng chi phí cao nhất mà Việt Nam phải bù đắp tối đa đến năm 2030 với mức tối đa sẽ là: 99.516.780$. Theo đánh giá
của ICAO các chi phí từ bù đắp các bon này sẽ tính theo mức tiêu thụ nhiên liệu thực tế
của các hãng hàng không và sẽ được tính vào giá vé máy bay.
Tuy nhiên, với các chi phí như vậy trong hoàn cảnh Việt Nam chưa xây dựng và vận hành thị trường mua bán trao đổi Các-bon, sẽ có một lượng đáng kể tiền từ trong nước chảy ra nước ngoài.
2. Tác động về môi trường
Bảo vệ Môi trường là một trong những mục tiêu Chiến lược
của ICAO. Từ cuối những năm 1960, lần đầu tiên ICAO tập trung vào
việc thiết lập các chính sách và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tiếng ồn máy bay, nhưng dần dần mở rộng sang các lĩnh vực khác như chất lượng không khí địa phương và sau đó là vấn đề về biến đổi khí hậu.
Trong lĩnh vực hàng không đã có những tiến bộ đáng kể trong công nghệ, với
việc sản xuất máy bay ngày nay có khoảng 80% hiệu suất nhiên liệu trên mỗi km hành khách so với những năm 1960. Tuy nhiên, phát thải hàng không được dự báo sẽ tăng trong những thập kỷ tới, vì những cải thiện hàng năm về hiệu suất nhiên liệu máy bay khoảng 1-2% phần lớn đã vượt qua dự báo tăng trưởng giao thông khoảng 5 phần trăm mỗi năm. Trên cơ sở đánh giá xu hướng môi trường
của Ủy ban Bảo vệ Môi trường Hàng không (CAEP)
của ICAO, tiêu thụ nhiên liệu hàng không quốc tế được ước tính tăng khoảng từ 2,8 đến 3,9 lần vào năm 2040 so với mức năm 2010. Vào tháng 10 năm 2013, Kỳ họp lần thứ 38
của Đại hội đồng ICAO thông qua Nghị quyết A38-18, giải quyết rằng ICAO và các nước thành viên cùng với các tổ chức có liên quan sẽ hợp tác để phấn đấu đạt được mục tiêu toàn cầu tập trung vào mục tiêu toàn cầu nhằm không tăng CO2 toàn cầu hàng không quốc tế từ năm 2020 (gọi là "tăng trưởng các-bon trung tính từ năm 2020"). Hội đồng cũng xác định một gói các biện pháp được thiết kế để giúp đạt được mục tiêu toàn cầu
của ICAO. Gói giải pháp này bao gồm các công nghệ máy bay như khung máy bay nhẹ hơn, hiệu suất động cơ cao hơn và các tiêu chuẩn chứng nhận mới, cải tiến hoạt động (ví dụ cải tiến hoạt động trên mặt đất và quản lý không lưu), nhiên liệu thay thế bền vững và các biện pháp dựa trên thị trường (MBMs).
Lợi ích môi trường tổng thể đạt được bằng các biện pháp không phải là MBMs sẽ không đủ cho ngành hàng không quốc tế đạt được mục tiêu hướng tới mục tiêu tăng trưởng không các-bon trung hạn từ năm 2020. Một kế hoạch MBM toàn cầu bổ sung một gói các biện pháp rộng hơn để đạt được mục tiêu mong muốn. Đây là một cách tiếp cận được ưa thích hơn là có một sự chắp vá các biện pháp khác có thể tạo ra tính không hiệu quả trong hệ thống mà không chắc chắn về
việc mang lại những lợi ích môi trường.
Bên cạnh tầm quan trọng căn bản mà các quốc gia coi trọng để bảo vệ môi trường và đặc biệt là tầm quan trọng
của việc hành động để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu là một vấn đề toàn cầu, đòi hỏi những nỗ lực toàn cầu.
CORSIA là một chương trình toàn cầu cho ngành công nghiệp hàng không quốc tế toàn cầu. Càng nhiều nước
tham gia CORSIA, càng có nhiều phát thải được bao phủ bởi đề án (đạt được tính toàn vẹn môi trường cao hơn). Mỗi quốc gia
tham gia vào
CORSIA sẽ giúp chúng ta gần hơn để đạt được mục tiêu hướng đến mục tiêu toàn cầu
của ICAO về tăng trưởng các bon trung lập từ năm 2020. Ngay cả khi một quốc gia không có các nhà khai thác tàu bay đăng ký tại quốc gia (và do đó không có chi phí tuân thủ), sự tham gia
của Nhà nước vào Kế hoạch sẽ bổ sung các tuyến đường do các nhà khai thác tàu bay nước ngoài điều hành giữa Nhà nước và các quốc gia
tham gia khác, do đó tăng phạm vi phát thải tổng thể
của chương trình này. Các quốc gia có mối quan tâm đặc biệt về du lịch sinh thái cũng sẽ được hưởng lợi từ
việc kết nối không khí xanh.
Dựa vào chương trình giảm và bù đắp các-bon lượng cac bon sẽ được giảm môi trường nhằm hạn chế hoặc giảm tác động
của phát thải khí nhà kính toàn cầu.
-Biện pháp dựa vào thị trường là các công cụ chính sách được thiết kế nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường ở cấp độ chi phí thấp hơn và linh hoạt hơn các biện pháp quản lý truyền thống”;
- “Nguyên tắc số 16
của Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển (1992) có nói rằng ‘Các chính phủ cần nỗ lực thúc đẩy
việc nội hóa chi phí môi trường, áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, quan tâm thích đáng tới lợi ích công cộng và không bóp méo đầu tư thương mại quốc tế”.
Việc
tham gia CORSIA sẽ mang lại các lợi ích xã hội và môi trường và các vấn đề kinh tế khác có liên quan đến phát triển bền vững. Đây là một trong những giải pháp rất hiệu quả sẽ giúp vừa cân bằng
việc tiếp tục phát triển ngành hàng không nhưng vẫn có thể giảm phát thải
của ngành hàng không thế giới.
3. Một số thông tin về cơ chế mua bán tín chỉ cácbon tại Việt Nam
Theo báo cáo
của Nguyễn Văn Thắng và các cộng sự tại Viện Khoa học khí tượng và thủy văn môi trường về “Cơ chế mua bán các – bon và khả năng phát triển tại Việt Nam” đã đưa ra các nội dung liên quan đến cơ chế mua bán các bon như sau:
Mua bán các-bon (các-bon trading) là cơ chế dựa vào thị trường để giảm nhẹ biến đổi khí hậu (BĐKH), được
thực hiện theo hai hình thức: Hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải (cap-and-trade) và Bù đắp các-bon (các-bon offset). Ý tưởng về mua bán các-bon xuất hiện lần đầu tiên dưới hình thức "mua bán ô nhiễm" ở Mỹ trong những năm 1960 sau đó đã được chính thức hóa bằng Nghị định thư Kyoto năm 1997, trong đó đề xuất ba cơ chế mềm dẻo: Buôn bán khí thải (ET), Cùng
thực hiện (JI) và Cơ chế phát triển sạch (CDM) (Bohm và Dabhi, 2009). Trong năm 2003, Hệ thống buôn bán phát thải các-bon
của Liên minh châu Âu (EU ETS) đi vào hoạt động theo Chỉ thị 2003 87 EC (EUROPA, 2010). Việc xây dựng thị trường các-bon nhằm cắt giảm tối đa lượng phát thải khí nhà kính (KNK) với chi phí thấp nhất được dựa trên một giả định rằng giảm phát thải là kỹ thuật tương tự ở bất cứ nơi nào trên trái đất miễn là nó sẽ xảy ra (Bohm và Dabhi, 2009). Bên cạnh các thị trường được quản lý bởi EU ETS và Nghị định thư Kyoto, một thị trường tự nguyện song song đã xuất hiện cho cả hai hình thức hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải và bù đắp các-bon.
Cơ chế hạn ngạnh và buôn bán giấy phép phát thải
Theo nguyên tắc
của cơ chế hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải (capand-trade), chính phủ sẽ đặt ra hạn ngạch mức phát thải các-bon cho các công ty (gọi là cap and trade) và sau đó cấp cho họ một số giấy phép xả thải (gọi là các-bon permit). Giả định ngầm
của hệ thống này là nhằm giảm thải nhiều nhất với chi phí thấp nhất, thông qua:
(i) Định lượng lượng phát thải KNK
của các hoạt động công nghiệp;
(ii) Đặt ra mức hạn ngạch đối với tổng lượng phát thải KNK; và
(iii) Khuyến khích các công ty và toàn bộ nền công nghiệp đưa ra quyết định về
việc làm thế nào để đáp ứng cam kết hạn ngạch phát thải khí nhà kính với chi phí thấp nhất có thể. Các công ty có thể đáp ứng cam kết hạn ngạch thông qua
việc đưa vào áp dụng các công nghệ xanh hoặc mua giấy phép tín chỉ các-bon từ các công ty khác hoặc từ cơ chế bù đắp các-bon. Nếu hạn ngạch phát thải thấp thì sẽ không tạo động lực đối với các công ty hay ngành công nghiệp cần phải
thực hiện các thay đổi đối với quá trình sản xuất
của họ (ví dụ như áp dụng các công nghệ xanh). Tuy nhiên, nếu những thay đổi này không hiệu quả thì các công ty sẽ phải tốn một khoản chi phí khá lớn cho các công nghệ xanh và vì thế các công ty này sẽ được phép mua thêm giấy phép xả thải để đáp ứng hạn ngạch phát thải mà chính phủ đặt ra. Ngược lại, nếu các công ty nhận thấy
việc thay đổi quy trình sản xuất là rất dễ dàng và có thể phát thải lượng KNK ít hơn so với mức hạn ngạch
của chính phủ thì các công ty này có thể bán tín chỉ các-bon này cho các công ty khác.
Thị trường hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải được quản lý lớn nhất là Hệ thống buôn bán phát thải các-bon
của Liên minh châu Âu (EU ETS). Đây là hệ thống buôn bán phát thải liên quốc gia lớn nhất thế giới được đưa vào hoạt động từ năm 2005 nhằm ứng phó với BĐKH và là trụ cột quan trọng
của chính sách khí hậu
của châu Âu. Đến tháng 01 năm 2013,
tham gia EU ETS có hơn 11.000 xí nghiệp, nhà máy điện và các cơ sở khác tại 31 quốc gia, trong đó có 27 quốc gia châu Âu, Croatia, Iceland, Na-uy và Liechtenstein.
Bên cạnh EU ETS, một số hệ thống hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải tự nguyện đã được thành lập như Hệ thống giảm phát thải Khí nhà kính
của New South Wales (NSW GGAS), Sáng kiến Khí nhà kính Khu vực (RGGI) và Sáng kiến Khí hậu phía Tây (Western Climate Initiative).
Cơ chế bù đắp các bon
Nếu các chính phủ, các công ty và cá nhân không muốn giảm lượng khí thải
của mình, họ có thể bù đắp lượng khí thải
của họ bằng cách đầu tư vào các dự án giảm phát thải khí nhà kính, như các dự án cùng
thực hiện (JI) và dự án Cơ chế Phát triển sạch (CDM) để có được các tín dụng các-bon.
Thị trường được quản lý
Cơ chế cùng
thực hiện (Joint Implementation – JI)
Cơ chế cùng thực hiện: Điều 6
của Nghị định thư Kyoto quy định các quốc gia thuộc Phụ lục I (các quốc gia phát triển) không có khả năng tự giảm lượng khí thải hiệu quả, tức là với chi phí thấp, có thể đầu tư vào một dự án giảm phát thải tại một số quốc gia Phụ lục I khác, mà
việc giảm khí nhà kính có thể được
thực hiện tương đối rẻ.
Hầu hết các dự án JI đang được
thực hiện tại các quốc gia có "nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, chẳng hạn như Nga và Ukraina, thuộc Phụ lục B
của Nghị định thư Kyoto. JI có nhiều điểm tương tự như CDM, với sự khác biệt duy nhất là các dự án JI được
thực hiện tại các nước phát triển về mặt pháp lý bị ràng buộc theo Nghị định thư Kyoto.
Cơ chế Phát triển sạch (Clean Development Mechanism – CDM)
Phái đoàn Mỹ đã tạo áp lực để đưa ra Cơ chế Phát triển sạch trong tuần lễ cuối cùng
của các cuộc đàm phán Kyoto. Ý tưởng về một CDM dựa trên đề xuất
của Brazil về một "quỹ phát triển sạch", trong đó nguồn tiền cho quỹ này sẽ là tiền phạt từ các quốc gia không đạt được các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, và sau đó quỹ này sẽ được sử dụng để giúp các nước đang phát triển đầu tư cho các công nghệ cần thiết cho giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Nhưng một số nước thuộc Phụ lục I, đặc biệt là Hoa Kỳ, không thích ý tưởng xử phạt các quốc gia không đạt được mục tiêu giảm phát thải.
Vì vậy, Hoa Kỳ đã đề xuất Cơ chế Phát triển sạch, trong đó các quốc gia không thể
thực hiện các cam kết giảm phát thải với chi phí thấp và hiệu quả có thể đầu tư vào các "công nghệ xanh" ở các quốc gia đang phát triển. Ý tưởng đằng sau
việc tạo ra các CDM là đưa ra một cơ chế có thể mang lại lợi ích cho cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Một mặt, các nước phát triển có thể đáp ứng mục tiêu giảm phát thải
của họ với chi phí thấp bằng cách đầu tư vào các nước đang phát triển (trong đó, lao động và các chi phí khác thường thấp hơn). Mặt khác, các quốc gia đang phát triển cũng sẽ được hưởng lợi từ
việc chuyển nhượng các "công nghệ sạch". trong các cuộc đàm phán tiếp theo đưa ra hai điều kiện rất quan trọng để các dự án CDM được UNFCCC thông qua: Thứ nhất, tất cả các dự án CDM cần phải giảm phát thải khí nhà kính so với kịch bản không
thực hiện các dự án CDM; thứ hai, tất cả các dự án CDM cần phải đóng góp vào sự phát triển bền vững tại các quốc gia đang phát triển. Tính đến ngày 31 10 2012, có 4.920 dự án CDM đã được Ban Chấp hành quốc tế về CDM (EB) cho đăng ký, bao gồm các dự án về năng lượng, chiếm 71,71%; các dự án xử lý chất thải, chiếm 12,41%; các dự án về trồng rừng và tái trồng rừng, chiếm 0,71% và các loại dự án khác, chiếm 15,17%. Tổng tiềm năng giảm phát thải ước tính
của các dự án này khoảng 2,17 tỷ tấn CO2 tương đương (CO2e) (tính đến hết năm 2012). Tổng số chứng chỉ giảm phát thải KNK được chứng nhận (CERs) đã được EB cấp cho các nước đang phát triển là 1.036.301.578 CER.
Thị trường tự nguyện
Song song với thị trường được hợp thức hóa bởi UNFCCC, thị trường ngoài khuôn khổ Nghị định thư Kyoto hay còn gọi là thị trường bù đắp các-bon tự nguyện đã xuất hiện và không bắt buộc phải đạt được bất kỳ mục tiêu giảm thải nào. Bất kỳ công ty, tổ chức phi chính phủ và cá nhân nào muốn bù đắp khí thải
của họ có thể trả tiền cho một số công ty như Trao đổi Khí hậu Chicago (Chicago Climate exchange) và sau đó các công ty này sẽ đầu tư vào "dự án xanh". Thị trường các-bon tự nguyện có tốc độ phát triển nhanh trong những năm gần đây, trong đó thị phần giao dịch tín chỉ cácbon từ rừng chiếm tỷ lệ cao. Báo cáo
của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ecosystem Marketplace năm 2012 cho thấy, khối lượng giao dịch
của thị trường các-bon tự nguyện có xu hướng tăng mạnh trong mấy năm gần đây (từ năm 2008 đến nay).
Trong năm 2010, dự án từ các hoạt động giảm phát thải từ nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng (REDD) chiếm tỷ lệ cao nhất trên thị trường tự nguyện về khối lượng giao dịch với 29%, các giao dịch liên quan đến tín dụng các-bon từ dự án điện gió chỉ chiếm khoảng 10% với khối lượng giao dịch là 6,7 triệu tấn CO2e. Tuy nhiên, đến năm 2011, tình hình đã đảo ngược hoàn toàn: Các giao dịch liên quan đến các dự án điện gió lại dẫn đầu về lượng giao dịch với 23,5 tiệu tấn CO2 tương đương chiếm 30,2%, trong khi khối lượng giao dịch liên quan đến REDD là 7,3 triệu tấn CO2e chiếm 9,4%. Nguyên nhân chính
của vấn đề này là giá tín chỉ các-bon từ các dự án điện gió rẻ hơn so với giá tín chỉ các-bon từ các hoạt động REDD. Trong những năm tới, tốc độ tăng trưởng
của thị trường tự nguyện ngày càng cao do nhu cầu mua tín chỉ các-bon
của các doanh nghiệp tiếp tục tăng mạnh. Dự báo đến năm 2020, khối lượng giao dịch
của thị trường tự nguyện vào khoảng 1.638 triệu tấn CO2, tăng hơn 12 lần so với quy mô thị trường tự nguyện hiện nay.
Thị trường mua bán giảm phát thải tự nguyện được điều chỉnh bởi nhiều bộ Tiêu chuẩn khác nhau, phụ thuộc vào yêu cầu
của bên mua. Hiện tại, bộ Tiêu chuẩn các-bon được thẩm định (Verified Các-bon Standard - VCS) được áp dụng phổ biến. Đơn vị giao dịch trong bộ Tiêu chuẩn này là VCU (Verified Các-bon Unit).
Đánh giá chung
Đánh giá về cơ chế hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải
Cơ chế hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải có cả ưu điểm và nhược điểm. Một mặt, người ta cho rằng cơ chế này có thể giảm phát thải với chi phí thấp nhất (Ellerman và NNK, 2010) và khuyến khích những cải tiến thân thiện với môi trường trong ngành công nghiệp. Cơ chế này cũng hiệu quả hơn thuế do nó quản lý tổng lượng phát thải và tạo ra những khuyến khích tài chính. Mặt khác, cơ chế hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải được cho rằng sẽ tạo ra sự trì hoãn trong
việc đầu tư cho các công nghệ các-bon thấp (Smith, 2007) và mang lại lợi ích cho các côngty lớn do các công ty này được cấp nhiều giấy phép xả thải (WWF, 2008; Bohm và Dabhi, 2009). Vấn đề khí nóng tại các quốc gia Liên Xô cũ và Đông Âu cũng bị chỉ trích do lượng giảm thải xuất phát từ chuyển đổi nền kinh tế, chứ không phải từ nỗ lực cắt giảm khí nhà kính (Soroos, 2001). Cuối cùng, còn một số rào cản đối với
việc thực hiện hiệu quả cơ chế hạn ngạch và buôn bán giấy phép phát thải như là các công ty tìm cách vận động hành lang để nhận được nhiều giấy phép phát thải hơn và thị trường buôn bán phát thải không minh bạch.
Đánh giá về cơ chế bù đắp các-bon
Cơ chế bù đắp các-bon trên lý thuyết là giảm phát thải khí nhà kính với chi phí thấp và góp phần vào sự phát triển bền vững tại các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản
của tất cả các dự án bù đắp các-bon là đường cơ sở và lượng giảm thải khí nhà kính thực tế so với kịch bản đường cơ sở (tính bổ sung môi trường) (Smith, 2007; Bumpus và Liverman, 2007). Việc xác định đường cơ sở Phát triển như bình thường (BAU) và các tiêu chí về tính bổ sung môi trường là rất không chắc chắn và vì vậy lượng khí thải có thể tăng lên do sự phóng đại đường cơ sở thực tế
của các công ty và sự phân bổ sai các tín chỉ Giảm phát thải được chứng nhận (CERs) (Woerdman, 2000; Pearson và Shao Long, 2003; Michaelowa, 2005; Bumpus và Liverman, 2007; Boyd và NNK, 2007; Schneider, 2007).
Khả năng phát triển cơ chế các-bon tại Việt Nam
CDM là cơ chế tài chính các-bon chính tại Việt Nam và phần lớn các dự án CDM đều trong lĩnh vực năng lượng. Đến ngày 31 10 2012, Việt Nam đã có 160 dự án được EB công nhận là dự án CDM với tổng lượng KNK được giảm khoảng 76 triệu tấn CO2e, đứng thứ 4 trên thế giới về số lượng dự án CDM được EB công nhận, đăng ký và xếp thứ 9 trên thế giới về số lượng CERs được EB cấp (7.203.167 ERs). Bên cạnh đó, tính đến 17 11 2012, Việt Nam đã có 6 Chương trình hoạt động (POA) đã được EB đăng ký, trong đó có 3 chương trình do Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư và Thương mại (INTRACO) điều phối, cụ thể như sau:
(i) Chương trình hoạt động Thủy điện nhỏ thân thiện (INTRACO);
(ii) Chương trình hoạt động Phát triển sản xuất gạch không nung (INTRACO);
(iii) Chương trình hoạt động Phát triển Nhiệt sinh khối (INTRACO);
(iv) Lắp đặt máy nước nóng năng lượng mặt trời cho khu vực miền Nam Việt Nam;
(v) Chương trình xử lý nước sạch quốc tế;
(vi) Chương trình hoạt động dự án thủy điện quy mô nhỏ tại Việt Nam.
Đến nay, cơ chế hạn ngạch và buôn bán giấy phép xả thải vẫn chưa được áp dụng tại Việt Nam, tuy nhiên cũng đã có một số dự án bù đắp các-bon tự nguyện. Tính đến năm 2012, Việt Nam có 5 dự án (Điện trấu Cái Bè, thuỷ điện Cốc Đàm, thuỷ điện Đăk Rung, thuỷ điện Nậm Ngần và thuỷ điện Trà Linh 3) đang tiến hành thủ tục giao dịch tín chỉ các-bon trên thị trường các-bon tự nguyện với khối lượng khoảng 100.000 tín chỉ. Hiện nay, cũng như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam chưa có quy định quản lý kinh doanh tín chỉ các-bon tự nguyện. Do đó, cần có các quy định quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon tự nguyện ra thị trường thế giới để các hoạt động kinh doanh này được thuận lợi và góp phần mang lại lợi ích cho đất nước.
Nhằm góp phần tích cực cùng cộng đồng thế giới bảo vệ hệ thống khí hậu, trong thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các Bộ liên quan xây dựng Đề án Quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh các-bon ra thị trường thế giới. Mục tiêu
của đề án là quản lý phát thải KNK nhằm
thực hiện UNFCCC và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời tận dụng các cơ hội để phát triển nền kinh tế các-bon thấp, tăng trưởng xanh và cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ phát thải KNK, góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước; quản lý, giám sát hiệu quả các hoạt động mua bán, chuyển giao tín chỉ các-bon được tạo ra từ các cơ chế trong và ngoài khuôn khổ Nghị định thư Kyoto ra thị trường thế giới. Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1775 QĐ-TTg, góp phần hình thành thị trường các-bon tại Việt Nam, khuyến khích tiếp cận thị trường các-bon với các dự án, chương trình giảm nhẹ phát thải và hấp thụ KNK nhằm phát triển nền kinh tế các-bon thấp, tăng trưởng xanh.