Động vật hoang dã thành món bình dân
(10:53:40 AM 30/09/2014)Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) vừa công bố kết quả khảo sát về kiến thức, thái độ, hành vi liên quan đến sử dụng sản phẩm từ động vật hoang dã (ĐVHD) và kết quả rà soát văn bản pháp luật, chính sách quản lý, bảo tồn ĐVHD nguy cấp quý hiếm. Hai cuộc khảo sát này do Viện Xã hội học thực hiện với sự tài trợ của Quỹ Môi trường toàn cầu trong khuôn khổ dự án Tăng cường công tác bảo tồn đa dạng sinh học thông qua cải cách chính sách và thay đổi hiện trạng tiêu thụ các loại ĐVHD ở Việt Nam.
Xu hướng “bình thường hóa”
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát một số người trong độ tuổi từ 20-69 tại toàn bộ 10 quận của TP Hà Nội xung quanh vấn đề sử dụng sản phẩm từ ĐVHD.
Kết quả có 69% số người được hỏi đã từng sử dụng ĐVHD làm thực phẩm, 67% sử dụng làm thuốc và 12% sử dụng làm đồ trang sức. Rắn, trăn được dùng làm thực phẩm nhiều nhất với tỉ lệ 49%, thứ hai là hươu với tỉ lệ 29%; ngoài ra còn có tê tê, rùa, linh trưởng... Sử dụng cho mục đích làm thuốc chữa bệnh thì gấu và hổ chiếm tỉ lệ cao nhất với 49%.
Một số loài như voi, hổ, chim, cá sấu... được sử dụng nhiều cho mục đích trang trí. Về đối tượng thì nam giới sử dụng ĐVHD nhiều hơn nữ giới và nhóm tuổi từ 20-34 sử dụng nhiều ĐVHD nhất.
“Nạn nhân” của các vụ săn bắt, mua bán động vật hoang dã được đưa về Trung tâm Cứu hộ gấu Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc Ảnh: Thu Sương
Một điều đáng ngạc nhiên là các yếu tố như “may mắn, thịnh vượng hay thú chơi thời thượng” lại không phải là nguyên nhân chính trong việc sử dụng ĐVHD mà do người tiêu dùng tin vào các công dụng của sản phẩm từ ĐVHD như chữa được bệnh, bồi bổ cơ thể, món ăn ngon, lạ... Những nhận thức này một phần hình thành từ kinh nghiệm lưu truyền dân gian, một phần từ chính lời khuyên của bác sĩ, kinh nghiệm truyền miệng và cả chính từ quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó cho thấy việc tiêu thụ sản phẩm từ ĐVHD đã trở nên bình dân hơn chứ không chỉ đơn thuần để thể hiện đẳng cấp, địa vị như trước kia.
Theo các chuyên gia bảo tồn, đây là điều rất đáng lo ngại bởi việc sử dụng ĐVHD trở nên bình thường, đồng nghĩa với mức độ sử dụng sẽ gia tăng. Minh chứng cho điều đó là khoảng 19% người tiêu dùng được hỏi cho biết họ có ý định bắt đầu hoặc tiếp tục sử dụng thực phẩm làm từ ĐVHD. Thậm chí, nhóm người ban đầu phản đối nhưng sau đó lại sử dụng ĐVHD, tỉ lệ này là 35%.
Theo nhận định của nhóm khảo sát, TP Hà Nội có “tiềm năng” rất lớn trong việc tiêu thụ và sử dụng ĐVHD, tập trung vào mục đích thực phẩm và làm thuốc.
Quá trình khảo sát cũng cho thấy việc tiếp cận sản phẩm từ ĐVHD khá dễ dàng. Việc quảng cáo thuốc cũng gián tiếp đẩy mạnh tiêu thụ ĐVHD.
Nghịch lý thừa và thiếu
Một trong những lỗ hổng lớn trong công tác bảo tồn ĐVHD tại Việt Nam là sự hạn chế và bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật. Nhóm khảo sát của Viện Xã hội học đã chỉ ra rất nhiều sự chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Chẳng hạn, điều 9 Nghị định 32/2006 cho phép kinh doanh, chế biến với mục đích thương mại các loại động vật rừng nguy cấp, hiếm thuộc nhóm 1B là tang vật xử lý tịch thu theo quy định hiện hành của nhà nước không có khả năng cứu hộ, thả về môi trường. Quy định này mâu thuẫn và không nhất quán với quy định chung của pháp luật là cấm buôn bán, săn bắn động vật hoang dã.
Việc cho phép chế biến kinh doanh dẫn đến cấm chưa triệt để và không đủ sức răn đe, thậm chí có thể làm gia tăng số vụ vi phạm và đi ngược lại nguyên tắc bảo tồn loài. Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất điều chỉnh hoặc thay thế Nghị định 32 để thống nhất với Nghị định 160/2013 về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ. Đồng thời, bãi bỏ quy định cho phép đấu giá tang vật là ĐVHD còn tươi sống, động vật rừng bị yếu, bị thương như trong Nghị định 157/2013.
Trong khi đó, nước ta lại thiếu các quy định về xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm liên quan đến ĐVHD cấp quý hiếm. Chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe. Chẳng hạn, theo Nghị định 157/2013, dẫu có bắt được số lượng lớn ĐVHD quý hiếm cũng chỉ bị xử phạt cao nhất là 500 triệu đồng.
Cấm nhưng lại thừa nhận!
Theo Nghị định 157/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, các mức phạt đều căn cứ vào giá trị quy ra tiền của động vật. Nhóm nghiên cứu của Viện Xã hội học cho rằng quy định này là bất hợp lý và phi logic bởi nếu đã cấm lưu hành hàng hóa là ĐVHD thì trên thị trường sẽ không có giá tham chiếu để xử phạt. Còn khi thừa nhận giá trị giao dịch thì cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận một thị trường phi pháp (còn gọi là thị trường chợ đen) đang tồn tại. Thực tế, có rất nhiều vụ vi phạm không xử lý được vì không có giá tham chiếu. Vì thế, nhóm nghiên cứu đề xuất nên bỏ yếu tố giá cả trong các căn cứ xử phạt, chỉ cần xét trên cơ sở loài, họ, số lượng cá thể... mà thôi.
Bạn cũng có thể quan tâm:
- Vĩnh biệt nhà khoa học lớn của thương hiệu nông sản Việt
- Giải Tennis đồng hương An Nhơn mùa hè 2024: Kết nối tình đồng hương qua từng đường bóng
- Giải Tennis đồng hương An Nhơn mùa hè 2024
- Ba cây Ruối cổ quần tụ trước ngôi đình thời Lý- Trần ở Hải Phòng được công nhận Cây Di sản Việt Nam
- Cây Nghiến cổ thụ bậc nhất của tỉnh Tuyên Quang được vinh danh là cây Di sản Việt Nam
- “Cụ Ruối” hơn 700 tuổi tại Miếu Đống Vịnh được vinh danh Cây di sản Việt Nam
- Ninh Thuận: Phê duyệt Đề án tổ chức thí điểm tuyến phố đi bộ
- Ninh Thuận: Cộng đồng người Chăm tưng bừng đón Tết Ramưwan
- WWF tiếp tục truyền thông, khuyến cáo “giảm nhựa” dành cho người tiêu dùng
Bài viết mới:
- Hội thảo đánh giá cuối kỳ dự án giảm thiểu tác động của đốt lộ thiên và sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp (23/11/2024)
- Cây Đa cổ thụ -Nơi treo cờ Cộng sản đầu tiên vùng ven Hà Nội được vinh danh Cây Di sản Việt Nam (20/11/2024)
- Lãnh đạo VACNE tham gia tọa đàm về luật thủ đô năm 2024 (20/11/2024)
- Hai cây cổ thụ vùng ven đô Thăng Long được vinh danh Cây Di sản Việt Nam (20/11/2024)
- Hội BVTN&MT Việt Nam cùng thống nhất hành động và triển khai các nhiệm vụ mới (20/11/2024)
- Lan tỏa thông điệp về phát triển bền vững đến người tiêu dùng qua từng vỏ hộp sữa (13/11/2024)
- Cây đầu tiên của huyện Đan Phượng được công nhận Cây Di sản Việt Nam (13/11/2024)
- Ăn gì để giúp bạn sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn? (11/11/2024)
- Đã chọn được một số đề tài xuất sắc trong cuộc thi “Sáng tạo xanh – Sống trong lành” (06/11/2024)
- Đoàn đại biểu VACNE tham dự Hội thảo “Đánh giá tác động và việc Giảm CO2” tại Hàn Quốc (28/10/2024)
Tiễn biệt GS.TS Võ Tòng Xuân - Một con người của tình thương và công việc
(Tin Môi Trường) - Vào lúc 7g30 ngày 22/8/2024 tại Nhà tang lễ TP Cần Thơ, Ban tang lễ và gia đình tổ chức lễ truy điệu tiễn đưa GS.TS. Võ Tòng Xuân, Anh hùng Lao động, Nhà giáo Nhân dân về nơi an nghỉ cuối cùng tại quê nhà Thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Ông Lê Văn Nưng, Phó Bí thư thường trực tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang, Trưởng Ban lễ tang đọc diễn văn truy điệu: Một lịch sử tường tận, sáng ngời từ ngày người con của đồng đất An Giang ra đời, thời niên thiếu, lớn lên, trưởng thành đến ngày làm rạng rỡ quê hương, đóng góp vô cùng to lớn cho nông nghiệp, giáo dục nước nhà.
Nông dân hồ hởi với tín chỉ carbon
(Tin Môi Trường) - Không chỉ trồng cây lấy lương thực, hoa trái, người nông dân ngày nay còn thu hoạch được cả tín chỉ carbon.
Trại Cai Nhựa - Chữa lành hành tinh bắt đầu từ những hành động nhỏ
(Tin Môi Trường) - Nhằm nâng cao nhận thức về tác hại của nhựa đối với sức khỏe và môi trường, Choice khởi xướng dự án truyền thông "Trại Cai Nhựa" với khẩu hiệu "Cắt cơn nghiện nhựa, chữa lành hành tinh". Trước thực tế đáng báo động về ô nhiễm nhựa, dự án hướng đến mục tiêu khuyến khích cộng đồng thay đổi thói quen sử dụng nhựa dùng một lần, góp phần xây dựng một môi trường sống bền vững.
Hoạt động làm sạch biển huyện đảo Phú Quý
(Tin Môi Trường) - Ngày 03/8/2024, Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường phối hợp với Huyện Đoàn Phú Quý (tỉnh Bình Thuận) tổ chức ra quân làm sạch rác thải nhựa tại bãi biển và trồng rừng phòng hộ tại khu vực ven biển Lạch Xanh, huyện đảo Phú Quý. Hoạt động với sự tham gia của gần 150 cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang các đơn vị và người dân địa phương.