(Tin Môi Trường) - Lần đầu tiên tại Việt Nam, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công quy trình công nghệ, ứng dụng sản xuất để tạo ra mô hình khép kín “trồng sả - chưng cất tinh dầu - sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh từ bã thải sau chưng cất phục vụ thâm canh cây trồng trên vùng đất chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu” góp phần phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững.
Ảnh minh hoạ: IE
* Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ chưng cất tinh dầu
Hiện nay, việc thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng đa dạng và phù hợp là một trong những hướng đi quan trọng của nền nông nghiệp. Theo các nhà khoa học, cây sả có khả năng thích ứng với điều kiện đất bị khô hạn và xâm nhập mặn. Ngoài mục đích trồng sả thu hoạch củ để tiêu thụ thị trường trong nước, lá sả còn được sử dụng để chưng cất tinh dầu phục vụ cho các ngành y học, thuốc bảo vệ thực vật... Tuy nhiên, các phương pháp chưng cất tinh dầu còn nhiều hạn chế, lượng bã thải sau chưng cất rất lớn mà chưa có biện pháp xử lý hiệu quả.
Xuất phát từ những vấn đề trên và kế thừa kết quả hai đề tài khoa học đã thực hiện từ năm 2013-2015, Tiến sĩ Lê Văn Tri cùng cộng sự tại Công ty cổ phần công nghệ sinh học đã nhân rộng và phát triển thành công công trình “Thâm canh trồng sả trên vùng đất chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để thu tinh dầu phục vụ tiêu dùng, xuất khẩu và sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh”. Mới đây, công trình đã vinh dự giành "cú đúp" trong lĩnh vực công nghệ nhằm ứng phó với biến đối khí hậu, bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên: giải Nhất Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ Việt Nam 2016 (VIFOTEC) và Giải thưởng quốc tế WIPO cho công trình xuất sắc.
Quá trình đi thực tế, chứng kiến người dân chỉ sử dụng phần củ cây sả cho chế biến thực phẩm, còn lá sẽ vứt đi hoặc để khô rồi đốt, Tiến sĩ Tri đã "trăn trở" cách tận dụng lá cây sả làm phân bón hữu cơ và ông ngày đêm "bắt tay" vào nghiên cứu, cuối năm 2012, ông phát hiện trong lá sả chứa hàm lượng tinh dầu dù không lớn nhưng rất có ích.
“Hiện Việt Nam và thế giới mới chỉ có công nghệ thu cất tinh dầu bằng phương pháp cuốn hơi nước, tức là cho lá vào nồi, đun lên, nước bay hơi, tinh dầu sẽ bay theo, sau đó làm lạnh để đưa tinh dầu và nước vào bình, tinh dầu nổi lên trên sẽ được chiết tách ra. Nhược điểm của cách làm này là thời gian chưng cất quá lâu, khoảng 6-12 tiếng, lượng tinh dầu không tập trung, tốn nhiều nguyên vật liệu, nhiên liệu, quy mô chưng cất nhỏ lẻ”, ông Tri chia sẻ.
Khắc phục hạn chế trên, Tiến sĩ Tri đã kết hợp giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại trong nghiên cứu hoàn thiện thiết bị và công nghệ chưng cất tinh dầu sả. Theo đó, ông sử dụng công nghệ áp lực phá vỡ tế bào để chưng cất tinh dầu. Hệ thống công nghệ này giúp giảm lượng nước tiêu hao trong quá trình sản xuất xuống hơn 80%, thời gian chưng cất còn 2 giờ mỗi mẻ, đồng thời giảm chi phí lao động, thiết bị có thể tự động hóa hoàn toàn. Nhờ thành công bước đầu này, ông cùng cộng sự tiếp tục thiết kế thiết bị chưng cất quy mô công nghiệp với 50-100 tấn lá sả/ngày.
Ảnh minh hoạ: IE
* Hiệu quả nhiều mặt
Theo Thạc sĩ Đặng Phương Dung, Giám đốc Công ty cổ phần tinh dầu BIO Việt Nam, công nghệ này dễ thực hiện và được áp dụng tại nhiều địa phương, đặc biệt là các địa phương chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và khô hạn như: Tiền Giang, Bình Định, Đắk Lắk, Gia Lai, Hòa Bình... Công nghệ này được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Bằng độc quyền sáng chế và đăng ký Nhãn hiệu hàng hóa quốc gia.
Trong quá trình nghiên cứu, Tiến sĩ Tri và cộng sự chỉ ra rằng, cây sả mang lại lợi ích về môi trường vì là loại cây trồng thích nghi với nhiều loại đất và có thể trồng ở nhiều loại địa hình khác nhau. Cây sả có bộ rễ phân bố rộng nên có khả năng hút nước, giữ nước tốt; có tác dụng giữ đất, chống xói mòn, rửa trôi hiệu quả. Vì thế, cây sả không chỉ thích ứng nơi hạn hán vùng đồi núi miền Bắc, mà còn chịu được trong điều kiện ngập mặn ở Tiền Giang hoặc Vĩnh Long, cho năng suất cao và mùi hương tinh dầu khá đặc biệt. Chu kỳ kinh tế của cây sả kéo dài, trồng một lần thu hoạch từ 3-4 năm. Điều này rất hữu ích với nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp ở Việt Nam.
Ngoài ra, Tiến sĩ Tri còn nghiên cứu sử dụng nguồn bã thải làm nguyên liệu hữu cơ để sản xuất phân bón vi sinh, hạn chế sử dụng phân bón hóa học. Phân hữu cơ vi sinh này sau đó lại sử dụng cho cây sả và các cây trồng khác, trả lại lượng dinh dưỡng lấy đi từ đất. Ngoài ra trong bã thải sau chưng cất còn tồn tại một lượng nhỏ tinh dầu, mùi thơm này có khả năng xua đuổi côn trùng hiệu quả.
Về lợi ích kinh tế, do đầu tư cho trồng sả thấp, thời gian thu hoạch nhanh và kéo dài, khả năng chống chịu tốt nên hiệu quả từ trồng sả cao, gấp 7-8 lần so với trồng lúa. Theo tính toán, lợi nhuận thu được từ lá và củ dao động từ 90-110 triệu đồng/ha. Trên diện tích thâm canh 20 ha trồng sả, một nhà máy sản xuất tinh dầu sẽ thu lợi nhuận từ 1,5-1,6 tỉ đồng/năm. Tổng hợp quy trình khép kín "trồng sả - thu tinh dầu - sản xuất phân bón" có thể mang lại hiệu quả kinh tế khoảng 143,6 triệu đồng/năm/ha.
Thời gian tới, ông Tri dự định sẽ tiếp tục thử nghiệm ứng dụng công nghệ vào sản xuất các loại tinh dầu từ cây trồng khác như: hồi, quế, tràm. Đồng thời, mở rộng thị trường tiêu thụ tinh dầu góp phần đẩy mạnh ngành công nghiệp tinh dầu nói chung và
tinh dầu sả nói riêng mang lại giá trị kinh tế cao cho người nông dân, hỗ trợ công cuộc xóa đói giảm nghèo cho người dân vùng núi và trung du.