Tài nguyên - Thiên nhiên » Khoáng sản
Xuất thô cũng như tự "ăn thịt" chính mình
(10:00:18 AM 29/03/2013)Từ thô tới thô!
Chỉ trong vòng bảy năm, tính từ cuối năm 2005, sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng gần 2,5 lần, cao su (thiên nhiên) xuất khẩu cũng tăng hai lần. Nhưng thành quả này cũng phải trả giá rất đắt, vì trong cùng thời gian đó, chỉ riêng ở khu vực Tây Nguyên 206.000 héc ta rừng đã biến mất.
Trong thập niên 80 của thế kỷ trước, xuất khẩu tài nguyên từng là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Việt Nam. Giờ đây, tuy tỷ lệ doanh thu từ các mặt hàng khoáng sản chỉ còn chiếm khoảng một phần mười tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng Việt Nam vẫn là một nền kinh tế phát triển dựa vào tài nguyên.
Thật vậy, theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, công nghiệp khai khoáng đóng góp 10-11% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu các loại khoáng sản trên 9,6 tỉ đô la Mỹ, trong đó nhiều nhất vẫn là dầu thô (8,228 tỉ đô la Mỹ) và than đá (1,238 tỉ đô la Mỹ). Tuy nhiên, nếu tính cả giá trị của những ngành mà Việt Nam đã phải trả giá bằng chính những tài nguyên quý giá nhất (rừng, đất đai) để có được, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào tài nguyên là rất lớn.
Cho đến nay, các nhà địa chất đã phát hiện được ở Việt Nam trên 5.000 điểm mỏ với 60 loại khoáng sản khác nhau, từ khoáng sản kim loại như: đồng, chì, kẽm, sắt, mangan, crom, titan, molybden, wolfram, thiếc, bauxite... cho đến các khoáng sản phi kim loại là nguyên liệu của ngành phân bón, vật liệu xây dựng, và khoáng sản năng lượng (dầu khí, than). Tuy nhiên, do phần lớn là khai thác, sơ chế rồi xuất khẩu dưới dạng thô, nên nó không có đóng góp gì đáng kể cho sự phát triển của các ngành công nghiệp.
Việc các cơ quan quản lý nhà nước ngó lơ cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản thô, thay vì lấy nguồn tài nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, khiến cho Việt Nam mất dần cơ hội để phát triển những ngành công nghiệp quan trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, từ năm 2009-2011, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 2,1-2,6 triệu tấn khoáng sản các loại (không kể than, dầu thô) với điểm đến chủ yếu là Trung Quốc, và chỉ mang lại giá trị 130-230 triệu đô la Mỹ. Riêng năm 2012, lượng khoáng sản xuất đi có giảm, chỉ còn gần 800.000 tấn, bằng đường chính ngạch. Nếu cộng cả số xuất lậu, xuất qua đường biên mậu, số lượng còn lớn hơn nữa. Chẳng hạn như vào năm 2008, chỉ riêng xuất lậu quặng titan ước tính đã lên đến 200.000 tấn.
Ở một số lĩnh vực, và dưới sức ép của Chính phủ, doanh nghiệp khai khoáng cũng có “đầu tư vào khâu chế biến” để xuất khẩu, nhưng thực tế chỉ là “ít thô” hơn mà thôi. Ngay những cơ sở tinh luyện đồng, dù được một số doanh nghiệp giới thiệu là “công nghệ cao”, nhưng công nghệ ấy cũng chỉ làm được đồng có độ tinh khiết 99,9%, chưa đủ “sạch” so với yêu cầu chung của các ngành công nghiệp sử dụng đồng làm nguyên liệu, vốn chỉ sử dụng đồng tinh khiết đến 99,99%.
Lợi có đủ bù đắp thiệt hại!
Cho đến nay, khai thác tài nguyên để xuất khẩu vẫn là ngành kiếm được nhiều lợi nhuận, nhưng cái lợi đó chỉ chảy vào một nhóm nhỏ doanh nghiệp. Việc khai thác ồ ạt tài nguyên và khoáng sản để xuất khẩu khiến cho nền kinh tế đã, đang và sẽ tiếp tục phải trả giá trong nhiều năm nữa.
Trước hết là sự lãng phí. Tại hội thảo “Tài nguyên khoáng sản và sự phát triển bền vững ở Việt Nam” diễn ra vào cuối tháng 11-2011, các diễn giả đã đưa ra con số trên 2.000 doanh nghiệp với 4.218 giấy phép khai khoáng đã được cấp. Điều đáng nói ở đây là sự cấp phép dễ dãi, mà một số chuyên gia kinh tế cho là do nhóm lợi ích chi phối, cộng với sự “dễ dãi” cả về công nghệ khai thác, làm cho tài nguyên bị thất thoát rất lớn.
Chẳng hạn như thất thoát trong khai thác than hầm lò đến 40-60%; khai thác apatit tổn thất 26-43%; khai thác quặng kim loại tổn thất 15-20%... Ngoài ra, do các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến nguồn quặng chính, nên không tận thu được các khoáng sản đi kèm khác cũng như các quặng nghèo. Ví dụ, độ thu hồi vàng từ quặng chỉ được 30-40%.
Tiếp đến, việc các cơ quan quản lý nhà nước ngó lơ cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản thô, thay vì lấy nguồn tài nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, khiến cho Việt Nam mất dần cơ hội để phát triển những ngành công nghiệp quan trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn. Đây mới là thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế.
Hơn nữa, việc mở đường cho khai thác tài nguyên mà không gắn với phát triển công nghiệp chế biến còn đẩy nhanh tốc độ “chảy máu tài nguyên”. Khi các ngành công nghiệp nội địa phát triển thì tài nguyên cũng không còn. Công nghiệp chế biến gỗ là một ví dụ điển hình. Trong suốt thập niên 1980 và những năm đầu thập niên 1990, Việt Nam xuất khẩu ồ ạt nguyên liệu gỗ. Mỗi năm, hàng triệu mét khối gỗ tròn và gỗ xẻ đã được đưa xuống tàu để xuất khẩu. Giờ đây, khi ngành công nghiệp sản xuất đồ gỗ phát triển thì nguồn gỗ nội địa cũng không còn. Chúng ta cũng có thể tìm thấy một ví dụ tương tự đang xảy ra với ngành khai thác than.
Đáng ngại hơn, việc phát triển kinh tế dựa chủ yếu vào việc khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô còn làm triệt tiêu động lực phát triển khoa học công nghệ. Đây là sự khác biệt giữa những nền kinh tế nghèo tài nguyên, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... và những nền kinh tế giàu tài nguyên như Nigeria, quốc gia đã kiếm được 350 tỉ đô la Mỹ từ xuất khẩu dầu thô từ năm 1965-2000 và giờ đây đang là một trong những nước nghèo của thế giới. Các nhà kinh tế gọi đó là lời nguyên tài nguyên, là “căn bệnh Hà Lan”.
Ở Việt Nam, “lời nguyền tài nguyên” rõ nét nhất có lẽ là ở lĩnh vực nông nghiệp. Để có sản lượng cà phê, cao su, tiêu, tôm... xuất khẩu tăng liên tục, chúng ta đã phải trả giá bằng hàng triệu héc ta rừng. Chỉ trong năm năm, 2006-2011, 124.000 héc ta rừng ngập mặn ven biển đã biến mất để nhường chỗ cho các ao tôm, ao cá, tương đương diện tích bị mất trong 63 năm trước đó.
Việc gia tăng sản lượng dựa vào tăng diện tích canh tác đã góp phần thủ tiêu động lực phát triển khoa học kỹ thuật nông nghiệp (để tăng sản lượng thông qua tăng tăng suất).
Và, giờ đây chúng ta đang phải trả giá và sẽ còn phải trả giá nhiều hơn trong tương lai.
Bạn cũng có thể quan tâm:
- Quảng Nam:Huyện không thống nhất cấp phép thăm dò vàng Phước Sơn
- Tây Ninh: Nhiều sai phạm về hoạt động khai thác khoáng sản
- Công ty Cổ phẩn Phước Phúc Nhân chuyên khai thác đất phạt 233 triệu đồng vì dính nhiều vi phạm
- Nghi vấn doanh nghiệp lớn ở Lâm Đồng khai thác khoáng sản trái phép
- Công ty nào đề xuất khai thác bô xít quy mô lớn ở Bình Phước?
- Phú Thọ: Siết chặt quản lý, sử dụng đất công ích
- Khai thác quặng đất hiếm: Nhiều rủi ro cho môi trường
- Nguy cơ gây thiệt hại cho môi trường sinh thái từ khai thác đất hiếm
- Các nguồn thải và nguy cơ ô nhiễm môi trường trong khai thác quặng đất hiếm
Bài viết mới:
- Cây Đa cổ thụ -Nơi treo cờ Cộng sản đầu tiên vùng ven Hà Nội được vinh danh Cây Di sản Việt Nam (20/11/2024)
- Lãnh đạo VACNE tham gia tọa đàm về luật thủ đô năm 2024 (20/11/2024)
- Hai cây cổ thụ vùng ven đô Thăng Long được vinh danh Cây Di sản Việt Nam (20/11/2024)
- Hội BVTN&MT Việt Nam cùng thống nhất hành động và triển khai các nhiệm vụ mới (20/11/2024)
- Lan tỏa thông điệp về phát triển bền vững đến người tiêu dùng qua từng vỏ hộp sữa (13/11/2024)
- Cây đầu tiên của huyện Đan Phượng được công nhận Cây Di sản Việt Nam (13/11/2024)
- Ăn gì để giúp bạn sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn? (11/11/2024)
- Đã chọn được một số đề tài xuất sắc trong cuộc thi “Sáng tạo xanh – Sống trong lành” (06/11/2024)
- Đoàn đại biểu VACNE tham dự Hội thảo “Đánh giá tác động và việc Giảm CO2” tại Hàn Quốc (28/10/2024)
- Mua đất bằng giấy viết tay có được cấp sổ đỏ không? (26/10/2024)
Phát hiện thiếu sót tại một số nhà máy điện gió nghìn tỷ ở Cà Mau
(Tin Môi Trường) - Qua kiểm tra nhiều nhà máy điện gió đang vận hành ở Cà Mau, ngành chức năng đã phát hiện một số thiếu sót.
Phát hiện loài sinh vật lạ trong Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
(Tin Môi Trường) - Nhóm thám hiểm tại Quảng Bình mới đây đã phát hiện một loài sinh vật lạ trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.
Hai cây cổ thụ vùng ven đô Thăng Long được vinh danh Cây Di sản Việt Nam
(Tin Môi Trường) - Sáng 17/11/2024, các cấp chính quyền, đoàn thể và cộng đồng thôn An Phú, xã Hoà Phú (huyện Ứng Hoà – Tp. Hà Nội) đã long trọng tổ chức Ngày hội đại đoàn kết toàn dân và lễ đón Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam cho cây Đa và cây Nhội cổ thụ được trồng trong khuôn viên Đình làng cách đây hơn 300 năm.