(Tin Môi Trường) - Khi môi trường thay đổi, thời tiết khí hậu cũng thay đổi, khi nó thay đổi một cách bi thảm, thì cơ cấu kinh tế và nhiều thứ khác cũng thay đổi – ngay cả thân thể vật lý của ta.
Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) nói rằng: »Trong một hệ thống mà tính Không được biểu hiện, thì tất cả các pháp đều có khả năng (hiện hữu). Nếu không nhờ nghĩa của Không, thì các pháp không thể nào hiện hữu.
Thế nên khi nói về thiên nhiên, thì thiên nhiên cứu cánh là tính không vậy nghĩa
của tính không là gì? Đó không phải là tính không
của tự nhiên hay
của sự hiện hữu độc lập, mà nó có nghĩa là các pháp tồn tại nhờ vào sự tương duyên
của rất nhiều yếu tố.
Về vấn đề sinh tồn của con người, loài người là một sinh vật có tính hợp quần. Để sinh tồn, các bạn cần có những nhóm người khác. Không có những con người khác, đơn giản là không có khả năng sinh tồn – đó là quy luật tự nhiên, đó là bản chất.
Thế nên dù môi trường đó là nơi cư trú hay là cư dân, cả hai đều là hợp thể
của bốn hoặc năm đại chủng căn bản. Những đại chủng đó là đất, nước, lửa, gió và không, đó là hư không. Về hư không, trong Thời luân Tantra có một đề cập về điều được gọi là một chất tử
của không, hạt tử
của không. Thế mà dạng thể đó lập nên một lực trọng tâm
của toàn thể hiện tượng giới. Khi toàn thể hệ thống cơ cấu vũ trụ lần đầu được hình thành, nó đã được tạo ra từ lực trung tâm nầy, đó là hạt tử
của không, và cũng là hệ thống
của vũ trụ cuối cùng, hệ thống nầy cũng sẽ tan hoại trong chính hạt tử
của không ấy. Thế nên về mặt cơ bản
của năm yếu tố nầy, có sự tương quan rất mật thiết giữa vùng cư trú, đó là môi trường thiên nhiên và cư dân, đó là các sinh thể đang sống trong môi trường ấy.
Cũng thế, khi ta nói về những đại chủng, có những yếu tố nội tại tồn tại trên cơ sở tự tính (existent inherently) ngay trong sinh thể ấy, cũng có những bình diện khác nhau, một số dạng thô và số khác thì vi tế.
Nên rốt ráo, theo giáo lý đạo Phật, điều vi tế nhất bên trong tâm thức chính là vai trò vi diệu độc nhất
của sự sáng tạo, chính là bao gồm năm đại chủng, và tính chất rất vi tế
của các đại chủng. Những yếu tố vi tế nầy phân tích ra như những điều kiện tạo ra những yếu tố nội tại để hình thành nên sinh vật, và trở lại tạo nên sự hiện hữu hay sự tiến hóa
của những yếu tố bên ngoài. Thế nên có một sự tương phùng rất mật thiết hoặc là sự tương quan giữa môi trường và các sinh thể đang sống trong môi trường ấy.
Trong ý nghĩa
của tương duyên, có nhiều mức độ khác nhau mà các vật thể nương tựa vào nhau – yếu tố nguyên nhân
của nó – hoặc là tâm ý thức thường gán cho nó một nhãn hiệu hoặc một biểu tượng.
Khi ta nói về những đại chủng, có những yếu tố nội tại tồn tại trên cơ sở tự tính (existent inherently) ngay trong sinh thể ấy, cũng có những bình diện khác nhau, một số dạng thô và số khác thì vi tế.
Mục tiêu mà chúng ta thảo luận hôm nay là sự tương quan hay tính tương duyên giữa môi trường thiên nhiên và các sinh thể đang sống trong đó.
Bây giờ, các bạn biết đó, có một số bạn tôi nói rằng bản chất con người là bạo động. Tôi bảo với bạn tôi rằng tôi không nghĩ là như vậy. Nếu chúng ta khảo sát nhiều loại động vật có vú, những loài như cọp và sư tử, ta thấy tùy thuộc vào cuộc sống
của những sinh vật khác mà có được sự sinh tồn
của loài nầy, vì bản tính cơ bản
của nó có một cấu trúc rất đặc biệt, răng nanh dài nhọn và móng vuốt rất sắc. Cũng như vậy, những loài vật hiền hòa, như hươu nai, hoàn toàn ăn cỏ, răng và móng
của nó hoàn toàn khác, hiền hơn. Nên từ quan điểm nầy, loài người chúng ta thuộc vào loài hiền từ, có phải vậy không? Răng, móng
của chúng ta rất hiền. Thế nên tôi nói với người bạn, tôi không đồng ý với quan điểm
của bạn. Cơ bản loài người có bản chất không bạo động.
Cũng vậy, về vấn đề sinh tồn
của con người, loài người là một sinh vật có tính hợp quần. Để sinh tồn, các bạn cần có những nhóm người khác. Không có những con người khác, đơn giản là không có khả năng sinh tồn – đó là quy luật tự nhiên, đó là bản chất.
Bởi vậy, tôi tin tưởng sâu sắc rằng cơ bản loài người thuộc về bản tính dịu hiền, tôi nghĩ là thái độ
của con người đối với môi trường cũng nên hiền hòa. Do đó tôi tin rằng không những chúng ta nên giữ mối liên hệ với loài người hiền hòa và không bạo động mà cũng nên có mối quan hệ như thế, cũng quan trọng khi lan tỏa thái độ đó đến môi trường thiên nhiên. Tôi cho rằng nói một cách đạo lý, chúng ta có thể suy nghĩ như thế và chúng ta đều phải nên quan tâm đến môi trường sống quanh mình.
Tôi lại nghĩ đến một quan điểm khác. Trường hợp nầy không phải là vấn đề đạo đức, luân lý, mà là vấn đề sinh tồn
của chính chúng ta. Không chỉ cho thế hệ nầy, mà còn cho thế hệ tương lai, môi trường là điều rất quan trọng. Nếu chúng ta khai thác môi trường bằng một phương pháp cạn kiệt, thì ngày nay chúng ta có thể sẽ có chút ít lợi ích, nhưng trong lâu dài chính chúng ta sẽ chịu đau khổ và thế hệ tương lai cũng sẽ đau khổ.
Theo giáo lý đạo Phật, điều vi tế nhất bên trong tâm thức chính là vai trò vi diệu độc nhất của sự sáng tạo, chính là bao gồm năm đại chủng, và tính chất rất vi tế của các đại chủng.
Thế nên khi môi trường thay đổi, thời tiết khí hậu cũng thay đổi, khi nó thay đổi một cách bi thảm, thì cơ cấu kinh tế và nhiều thứ khác cũng thay đổi – ngay cả thân thể vật lý
của ta. Thế nên các bạn có thể thấy ảnh hưởng lớn lao từ sự thay đổi ấy. Từ quan điểm nầy, đây không phải chỉ là vấn đề sống còn
của chúng ta. Do vậy, để thành tựu được nhiều kết quả hữu hiệu và để thành công trong việc bảo vệ, giữ gìn môi trường thiên nhiên. Trước hết, tôi nghĩ, cũng rất quan trọng khi làm phát sinh sự quân bình nội tại trong chính con người. Bởi vì sự thờ ơ với môi trường mà đã có hậu quả tai hại rất nhiều đối với cộng đồng nhân loại – xuất phát từ sự mê muội về tầm quan trọng đặc biệt
của môi trường. Tôi nghĩ điều quan trọng nhất trong tất cả là truyền đạt sự hiểu biết nầy cho mọi người. Thế nên rất quan trọng khi dạy hay nói với mọi người về tầm quan trọng, về lợi ích
của chính môi trường.
Kế đến, một điều tối quan trọng khác nữa, như tôi luôn luôn kêu gọi, là tầm quan trọng
của lòng từ bi. Như tôi đã đề cập trước đây, dù có xuất phát từ quan niệm ích kỷ
của riêng mình, thì các bạn vẫn phải cần đến người khác. Thế nên qua biểu hiện sự quan tâm đến lợi ích
của người khác, chia xẻ khổ đau với người khác, và qua sự giúp đỡ người khác, rốt cục mình sẽ được lợi lạc. Còn nếu chỉ nghĩ đến riêng mình và quên người khác, rốt cục mình sẽ thiệt thòi. Đây cũng là điều giống như luật tự nhiên. Tôi nghĩ điều nầy rất đơn giản. Nếu các bạn không biểu lộ nụ cười với người khác, mà biểu hiện một cái nhìn ác cảm, thì người kia sẽ đáp lại một cách xử sự tương tự. Có đúng vậy không? Nếu quý vị dành cho người khác một phong thái chân thành và cởi mở, thì sẽ nhận được sự đáp ứng tương tự. Nên đó là luận lý hoàn toàn đơn giản.
Thực vậy, thời cổ đại, có nhiều nhà tư tưởng cũng như các vị đạo sư tâm linh vĩ đại đã ra đời ở đất nước Ấn Độ này, nên tôi cảm thấy trong tương lai, những nhà tư tưởng Ấn Độ vĩ đại, như Mahatma Gandhi, cũng như những nhà chính trị khác, sẽ áp dụng tư tưởng quý báu như Bất hại (ahimsa) vào lĩnh vực chính trị. Theo một phương cách nào đó, chính sách ngoại giao không liên kết cũng có liên quan đến đạo lý này. Thế nên tôi suy nghĩ đến tầm mức xa hơn, hoặc sự phát triển rộng hơn về ý tưởng quý báu, hoặc hành động cao quý nầy ở đất nước Ấn Độ là rất thích đáng và rất quan trọng.
Loài người thuộc về bản tính dịu hiền, tôi nghĩ là thái độ
của con người đối với môi trường cũng nên hiền hòa. Do đó tôi tin rằng không những chúng ta nên giữ mối liên hệ với loài người hiền hòa và không bạo động mà cũng nên có mối quan hệ như thế, cũng quan trọng khi lan tỏa thái độ đó đến môi trường thiên nhiên.
Loài người thuộc về bản tính dịu hiền, tôi nghĩ là thái độ
của con người đối với môi trường cũng nên hiền hòa. Do đó tôi tin rằng không những chúng ta nên giữ mối liên hệ với loài người hiền hòa và không bạo động mà cũng nên có mối quan hệ như thế, cũng quan trọng khi lan tỏa thái độ đó đến môi trường thiên nhiên.
Bây giờ trong khía cạnh này, có một điều khác mà tôi thấy rất quan trọng là tâm thức. Thế tâm là gì? Cho đến nay, đặc biệt là ở thế giới Tây phương, suốt hai thế kỷ trở lại đây, khoa học kỹ thuật đã chú trọng rất nhiều và chủ yếu là về vật chất. Bây giờ ngày nay một số nhà vật lý hạt nhân và các nhà thần kinh học đã bắt đầu khảo sát, phân tích các chất tử (particles) theo một phương pháp rất chi tiết và sâu sắc. Trong khi tiến hành thí nghiệm, họ tìm thấy có sự tham gia
của phía người quan sát, đôi khi họ còn gọi là »cái biết«. Điều gì là »cái biết«? Đơn giản là sự sống, là con người, như nhà khoa học. Bằng cách nào mà các nhà khoa học biết được? Tôi cho rằng nhờ vào bộ óc mà họ biết được. Nay, nói về não bộ, các khoa học gia phương Tây chưa có một định nghĩa gì nhiều hơn về não ngoài hằng trăm triệu tế bào chứa trong não. Còn bây giờ nói về tâm, dù các bạn có gọi tâm là một năng lực đặc biệt
của bộ não, hay gọi là ý thức, thì quý vị sẽ thấy rằng có một sự liên hệ rất rõ giữa bộ não, tâm và vật. Tôi nghĩ điều nầy rất quan trọng, tôi thấy nên có vài cuộc đối thoại giữa triết học Đông phương và khoa học Tây phương về nền tảng quan hệ giữa tâm và vật.