»

Thứ tư, 30/10/2024, 04:24:19 AM (GMT+7)

Báo cáo của GS. TSKH Phạm Ngọc Đăng nhân Ngày Môi trường thế giới (5/6/2012)

(11:53:17 AM 06/06/2012)
(Tin Môi Trường) - Tin Môi Trường giới thiệu bài nói chuyện của GS. TSKH Phạm Ngọc Đăng, Phó Chủ Tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường Việt nam, Ủy viên HĐQG về Phát triển bền vững tại UBTW Mặt trận tổ quốc VN nhân ngày Môi trường thế giới 5/6/2012


GS. TSKH. Phạm Ngọc Đăng, Phó Chủ Tịch Hội BV Thiên nhiên & Môi trường Việt nam


Cách đây tròn 40 năm, ngày 5 tháng 6 năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh Môi trường Thế Giới lần thứ nhất, được tổ chức tại Stockholm, Thụy Điển đã ra lời kêu gọi “Hãy cứu lấy Trái Đất- Ngôi Nhà chung của chúng ta” , Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã quyết định lấy ngày này là Ngày Môi trường Thế Giới và giao cho UNEP hàng năm thay măt Liên Hiệp Quốc tổ chức kỷ niệm ngày Môi trường Thế giới này. Từ đó, hơn 150 quốc gia trên thế giới đã hưởng ứng tham gia vào ngày kỷ niệm này. Các hoạt động hưởng ứng thường được tổ chức trong tuần lễ xung quanh ngày 5 tháng 6 hàng năm.

 

Hội nghị thượng đỉnh Môi trường Thế Giới lần thứ 2 được  tổ chức tại Rio De Janeiro, Brazil, ngày 3-14 tháng 6 năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh Thế Giới về Môi trường và phát triển bền vững lần thứ 3, gọi là Hội nghị Rio 10,  được  tổ chức tại Jonhanesburg, Nam Phi, năm 2002. Hội nghị thượng đỉnh Thế Giới về Môi trường và phát triển bền vững lần thứ 4, năm 2012, được gọi là Hội nghị Rio 20,  sẽ được  tổ chức tại Rio De Janeiro, Brazil, cũng là nước chủ nhà tổ chức lễ kỷ niệm ngày Môi trường của toàn thế giới năm nay.   

 

Chủ đề Ngày Môi trường thế giới 5/6/2012 là “Kinh tế Xanh: Có vai trò của Bạn” (Green Economy: Does it include you?) 

 

I. Tại sao lại chọn chủ đề ngày môi trường thế giới năm nay là “Kinh tế Xanh: Có vai trò của bạn” 

 

1. Tại Hội nghị của các quan chức cấp Bộ trưởng các nước do UNEP tổ chức ở Nairobi, Kenya tháng 02-2011 nhằm chuẩn bị nội dung và thảo luận những vấn đề cần đưa ra bàn thảo và thống nhất để chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh Rio 20 về môi trường và phát triển bền vững năm 2012 cũng tại Rio de Janerio, Brazin. Trong Hội nghị này các Bộ trưởng đã nhất trí mục tiêu cơ bản của Hội nghị Rio 20 là hướng tới của các nền kinh tế toàn cầu là nền “Kinh tế Xanh”, trong đó cần chú trọng tới “Sản xuất và tiêu dùng bền vững” . Vì vậy UNEP đã chọn chủ đề của ngày Môi trường Thế giới năm 2012 là “Kinh tế xanh: Có vai trò của bạn”. 

 

2.  Năm 2012 là một năm đặc biệt kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992 (gọi tắt là Hội nghị Rio), các nhà lãnh đạo thế giới sẽ một lần nữa gặp nhau tại Rio de Janeiro (gọi là Hội nghị Rio 20) đề thảo luận về tương lại của sự phát triển bền vững. Hội nghị Rio 20 sẽ bao gồm hai nội dung chính: Một nền Kinh tế Xanh trong bối cảnh phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo và khuôn khổ thể chế cho phát triển bền vững.

 

3. Chủ đề Ngày Môi trường thế giới 5/6/2012 là “Kinh tế Xanh: Có vai trò của Bạn” (Green Economy: Does it include you?). Chủ đề này nhấn mạnh rằng, để xây dựng nền Kinh tế Xanh thì chúng ta cần suy nghĩ lại về cách phát triển kinh tế nếu muốn tạo ra một tương lai tươi sáng.

 

4. Nhưng quan trọng hơn, chủ đề này nhấn mạnh một thực tế là chính “bạn” là một yếu tố quan trọng góp phần cho sự thành công của nền Kinh tế Xanh, bạn là người tham gia vào quá trình đánh giá các bước thực hiện của Chính Phủ, các khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội dân sự và cộng đồng trong khu vực của bạn, tức là bao gồm “chính bạn”. 


II.   
Nội hàm phát triển của nền Kinh tế Xanh

 

1. Kinh tế Xanh được UNEP định nghĩa là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái. Một nền Kinh tế Xanh được đặc trưng bởi sự tăng trưởng bền vững của các hợp phần kinh tế có khả năng duy trì và gia tăng nguồn vốn tự nhiên của trái đất. Các hợp phần này bao gồm năng lượng tái tạo, giao thông ít phát thải cacbon, công nghệ sạch, hệ thống quản lý chất thải tiên tiến, tiết kiệm năng lượng, nông-lâm-ngư nghiệp bền vững... Nguồn lực đầu tư cho Kinh tế Xanh được thu hút, hỗ trợ bởi chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia cũng như sự phát triển các chính sách và hạ tầng thị trường quốc tế.

 

2. Hiểu một cách đơn giản, Kinh tế Xanh là nền kinh tế ít phát thải cacbon, tiết kiệm tài nguyên và tạo ra công bằng xã hội. Nền kinh tế xanh được đăc trưng cơ bản là  “Sản xuất xanh và tiêu dùng xanh”.  Kinh tế Xanh không thay thế phát triển bền vững mà là chiến lược kinh tế để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Các quốc gia phát triển trên thế giới như Mỹ, Đức, Hàn Quốc... đã đầu tư hàng trăm tỷ USD cho chính sách Kinh tế Xanh, coi đó là sự đầu tư tốt nhất đối với phát triển bền vững của quốc gia, vừa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định, vừa góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường và tạo việc làm. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, Kinh tế Xanh tuy còn khá mới mẻ song bước đầu đã có sự chuyển hướng đầu tư vào các công nghệ sản xuất sạch hơn, một trong các tiêu chí của nền Kinh tế Xanh

 

3. Xét về mặt học thuật, “Nền Kinh tế Xanh” là sự nâng cấp của “Kinh tế Môi trường”, trong kinh tế môi trường về bản chất đó là “Quan hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế và môi trường nhằm bảo đảm một sự phát triển ổn định, hiệu quả và bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường và lấy con người làm trung tâm”, Kinh tế Xanh nhấn mạnh hơn đầu tư cho phát triển chú trọng tới giảm thiểu ô nhiễm, nhất là giảm phát thải cacbon và duy trì, phát triển nguồn vốn của tự nhiên, mang lại quyền hưởng lợi của mọi người do đầu tư đó mang lại.

 

Theo kết qủa nghiên cứu của các tác giả trong tài liệu “Hướng tới nền Kinh tế Xanh” do UNEP công bố năm 2011, mô hình kịch bản đầu tư xanh với số vốn kho  ảng 2% GDP toàn cầu (Khoảng 1300 tỷ USD), trong đó khoảng một phần tư của tổng số (0,5% GDP) tương đương với số tiền 350 tỷ USD được đầu tư cho các lĩnh vực sử dụng nhiều nguồn tài nguyên  thiên nhiên như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nước sạch và thủy sản. Trong mô hình kinh tế vĩ mô, các tác giả cũng đã tính toán và chỉ ra rằng, xét trong dài hạn, đầu tư vào nền Kinh tế Xanh sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế và tăng tổng lượng của cải trên toàn cầu. Mặt khác sự đầu tư đó sẽ đem lại hiệu quả trong việc phục hồi các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo, giảm thiểu những rủi ro môi trường và tái thiết sự thịnh vượng cho tương lai. Như vậy xây dựng một nền Kinh tế Xanh cũng không thay thế và mâu thuẫn với “Phát triển bền vững”, vì phát triển bền vững thực chất là “sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai”, phát triển bền vững nhằm đạt tới mục tiêu dài hạn, còn xanh hóa nền kinh tế là phương tiện đưa chúng ta tới đích của PTBV . 

       
III. Nền Kinh tế Xanh là mục tiêu hướng tới của kinh tế toàn cầu

 

“Kinh tế Xanh” đã mở ra một hướng tiếp cận rộng hơn cho cả những điều chỉnh từ chính sách kinh tế vĩ mô và điều hành thực hiện trong kinh tế vi mô, nhất là đối với chính sách công trong đầu tư cho khôi phục tài nguyên và môi trường. Khái niệm này mới ra đời nhưng trong thực tế đã có nhiều quốc gia đã và đang thực hiện theo hướng xanh hóa nền kinh tế, thậm chí đã đưa ra các chỉ tiêu đo lường đánh giá nền kinh tế xanh, đó là chỉ số GDP xanh (Green GDP) cho chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Đối với hoạt đông của doanh nghiệp, những sản phẩm có chất lượng cao và có sức cạnh tranh trên thế giới trong thời gian vừa qua cũng là những sản phẩm không chỉ đạt về mặt chất lượng mà còn đảm bảo yêu cầu về môi trường, đó là những sản phẩm đã đăng ký và được cấp chứng chỉ ISO-14000, những sản phẩm xanh được cấp nhãn sinh thái (Eco-label), những sản phẩm đó chính là sự lựa chọn của người tiêu dùng. Từ khởi xướng của UNEP về “Kinh tế Xanh”, để thực hiện nền Kinh tế Xanh, đòi hỏi các quốc gia căn cứ vào thực tiễn của mỗi nước tiến hành chuyển đổi mô hình và phương thức phát triển kinh tế cho phù hợp với xu thế phát triển mới, phải có sự điều chỉnh kết cấu kinh tế. Trong thực tế đã có một số nước mặc dù không nói rõ phát triển “nền Kinh tế Xanh”, nhưng họ đã có những điều chỉnh và chuyển đổi phương thức phát triển không theo phương thức phát triển cũ nữa-“Kinh tế nâu”. 

      

Thực tế tồn tại và phát triển của các quốc gia trên thế giới trong thế kỷ XIX, XX và những năm đầu của thế kỷ XXI cho chúng ta thấy phát triển kinh tế mới chủ yếu chú trọng về mặt lợi ích mang lại. Tuy nhiên, nó chưa tính đến các vấn đề ngăn ngừa, giảm ô nhiễm và bảo vệ môi trường. Do đó, quá trình phát triển kinh tế này đang đưa thế giới tới những vấn đề toàn cầu như đói nghèo, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái, biến đổi khí hậu trầm trọng.

 

Ý tưởng phát triển “kinh tế xanh” được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, phải đến tháng 10/2008, UNEP phối hợp với các nền kinh tế hàng đầu thế giới mới triển khai sáng kiến “kinh tế xanh” (Green Economy). Đây là một hướng tiếp cận mới, được nhiều quốc gia đồng tình hưởng ứng. Theo UNEP, “kinh tế xanh” là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái. Hiểu một cách đơn giản, “kinh tế xanh” là nền kinh tế ít phát thải cacbon, tiết kiệm tài nguyên và tạo ra công bằng xã hội. Đồng thời, nó là chiến lược kinh tế để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. 

 

 IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ XANH 

        
- ĐỐI VỚI THẾ GIỚI

 

- Từ cuộc cách mạng công nghiệp lần 1 đến nay diện tích rừng đã giảm trên 40%;

 

- 50% diện tích đất ngập nước đã biến mất từ năm 1900;

 

- 60% các hệ sinh thái trên trái đất cũng như nguồn lợi từ các hệ sinh thái đó đang suy giảm;

 

- 1 tỷ người đang rơi vào tình trạng nghèo đói và thiếu lương thực, tập trung chủ yếu ở châu Phi và châu Á;

 

- 900 triệu người đang phải sống trong các khu nhà ổ chuột, với tốc độ phát sinh thêm 25 triệu người/năm;

 

- Sự lãng phí và tiêu dùng không bền vững của xã hội đã góp phần đáng kể vào lượng lương thực và thực phẩm đang bị vất bỏ ;

 

- Trong lúc khủng hoảng tài chính-kinh tế đang đẩy hàng triệu người vào cảnh nghèo đói, thì các cuộc khủng hoảng về lương thực, nước, năng lượng, vệ sinh, bệnh dịch, hệ sinh thái và BĐKH … vẫn chưa tìm ra lối thoát. 

       
- ĐỐI VỚI VIỆT NAM

 

Phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian qua chưa bền vững.

 

- Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp;

 

- Tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên với cường độ cao;

 

- Công nghệ sản xuất chậm đổi mới nên mức độ tiêu tốn năng lượng, nguồn nước và nguyên vật liệu lớn;

 

- Năng lượng có nguồn gốc hóa thạch là than vẫn chiếm vị trí ưu thế, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng;

 

- Tình trạng suy kiệt nguồn nước đang diễn ra. Nhiều loại khoáng sản đang dần bị cạn kiệt và chưa được quản lý tốt. ĐDSH bị suy giảm và môi trường tiếp tục bị xuống cấp trong khi các thảm họa do thiên tai và những diễn biến về BĐKH toàn cầu đang tăng nhanh;

 

- BĐKH đang trở thành một thách thức lớn đối với Việt nam trong thế kỷ 21. 

         
V. LỢI ÍCH CỦA PHÁT TRIỂN  KINH TẾ XANH

 

- Phát triển kinh tế xanh được xem là một chiến lược cần thiết để đạt được sự PTBV, là một mô hình, một công cụ hữu hiệu để giải quyết các thách thức mang tính toàn cầu, như là khủng hoảng kinh tế, BĐKH, ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, an ninh năng lượng và an ninh lương thực;

 

- Xây dựng nền kinh tế xanh là mô hình phát triển mới được nhiều nước trên thế giới thực hiện nhằm không những giảm thiểu khí nhà kính, giảm nhẹ BĐKH, mà còn có tác dụng nâng cao chất lượng của tăng trưởng, thay đổi cơ cấu của sản xuất và tiêu dùng theo hướng bền vững và cải thiện đời sống của con người.

 

 VI. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY

1- HOA KỲ: Mỹ đã dành 95 tỷ USD trong gói kích thích kinh tế hơn 700 tỷ USD để phát triển các ngành năng lượng tái tạo và sản xuất tiết kiệm năng lượng với mục tiêu đến năm 2025, các loại năng lượng tái tạo sẽ chiếm 25% tổng lượng phát điện.


2- EU:
Các nước EU đầu tư tới 105 tỷ Euro vào phát triển kinh tế xanh với mục tiêu giảm 20% lượng khí thải nhà kính, tăng năng lượng tái tạo lên 20% tổng lượng tiêu thụ năng lượng của cả EU vào năm 2020.


3- LIÊN BANG ĐỨC:
Đức là nước đang đi đầu trên thế giới về phát triển kinh tế xanh, có nỗ lực rất cao để trở thành cường quốc công nghiệp đầu tiên trên thế giới sử dụng 100% “năng lượng xanh” vào năm 2050. Hiện  nay nền công nghiệp năng lượng tái tạo của Đức có giá trị tới 240 tỷ Euro và sử dụng tới ¼ triệu người.

Reichstag - tòa nhà nghị viện của Đức tại thủ đô Berlin đang trở thành tòa nghị viện đầu tiên trên thế giới sử dụng 100% năng lượng tái tạo.

Bộ Môi trường Liên bang Đức đã công bố Bản Lộ trình mới phác thảo tiến trình thực hiện các kế hoạch hướng tới một nền kinh tế sử dụng hoàn toàn năng lượng tái tạo.


Năm 2008, năng lượng tái tạo chiếm 7% tổng lượng tiêu thụ năng lượng của Đức nhưng con số dự đoán sẽ tăng lên 33% vào năm 2020, trong đó năng lượng gió đóng góp nhiều nhất với 15%, năng lượng sinh học đứng thứ 2 với 8%. Kế hoạch trong Bản Lộ trình bao gồm các biện pháp nâng cao hiệu suất năng lượng, trong đó có việc xây dựng mạng lưới điện thông minh, giảm tiêu thụ năng lượng của quốc gia khoảng 28% trong vòng 20 năm tới.

Ước tính rằng vào năm 2030, có tới 50% nguồn điện của Đức sẽ được lấy từ các nguồn năng lượng tái tạo. Năng lượng mặt trời sẽ được nhập khẩu qua Ý từ các nhà máy năng lượng mặt trời đang vận hành ở các sa mạc có năng lượng mặt trời lớn . 


Xe hơi điện sẽ sử dụng pin sạc bằng năng lượng tái tạo, làm giảm nhu cầu về xăng dầu và giảm lượng phát thải các khí nhà kính.

Năng lượng sinh khối ở Đức hiện đang phát triển với tốc độ nhanh nhất trong tất cả các nguồn năng lượng tái tạo.  Năm 2008, năng lượng sinh khối cung cấp khoảng 3,7% lượng tiêu thụ điện ở Đức, tăng so với 3,1% năm 2007, trong khi đóng góp của năng lượng gió năm 2008 chỉ đạt 6,5%, tăng khoảng 0,1% so với 6,4% của năm 2007.


4. HÀN QUỐC:
Được xem là một nước mới phát triển ở châu Á đã đi đầu trong lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở châu Á. Từ năm 2008 Hàn Quốc đã đề ra chính sách “Tăng trưởng xanh, ít Cac-bon” với nội dung tái cơ cấu nền kinh tế chuyển sang mô hình phát triển dựa vào phát triển năng lượng tái tạo với 3 nguyên tắc: (i) Duy trì hoạt động kinh tế có hiệu quả trong khi tối thiểu  hóa mức độ tiêu thụ năng lượng và tài nguyên; (ii) Tối thiểu hóa áp lực về môi trường đối với sử dụng mỗi nguồn năng lượng và tài nguyên thiên nhiên; (iii) Coi đầu tư cho BVMT như là một công cụ để phát triển kinh tế bền vững.


5. TRUNG QUỐC
: Trung Quốc đã dành khoảng 40% gói kích thích kinh tế vào các ngành kinh tế xanh, tập trung vào phát triển năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng có hiệu quả, cam kết tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo lên 16% vào năm 2020.


6. CÁC NƯỚC ASEAN:
Nhiều nước trong ASEAN, như là Thái lan, Philippines, Malaysia, Singapore … đã đưa phát triển kinh tế xanh vào các kế hoạch và chương trình phát triển quốc gia trung hạn và dài hạn.
 

       
VII.  PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH Ở VIỆT NAM
 

 

Giảm phát thải cacbon, phát triển năng lượng tái tạo, “xanh hóa” cả sản xuất và đời sống sẽ là cuộc chuyển đổi quan trọng phương thức phát triển, mô hình tăng trưởng bền vững và cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

 

Chiều 24/10/2011, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì cuộc họp với các cơ quan liên quan cho ý kiến bước đầu trong quá trình xây dựng một bản Khung chiến lược Tăng trưởng Xanh của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

 

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cùng các cơ quan liên quan xem xét, cho ý kiến xây dựng một số nội dung lớn của dự thảo Chiến lược Tăng trưởng Xanh. Trước hết là quan điểm, mục tiêu tổng quát coi đây là hợp phần quan trọng của chủ trương phát triển bền vững, là bước chuyển đổi quan trọng sang mô hình tăng trưởng và cơ cấu nền kinh tế, cũng là bước cam kết của Việt Nam, hưởng ứng nỗ lực, xu thế chung của cộng đồng quốc tế về phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

 

Hội nghị đã đưa ra các mục tiêu định hướng, nhiệm vụ rà soát, đánh giá và đưa  ra chỉ tiêu định lượng về cải thiện hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong các hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại; đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo và năng lượng mới; phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững.

 

Nằm trong khu vực phát triển năng động nhất thế giới, Việt Nam đang hội tụ những điều kiện thuận lợi từ điều kiện tự nhiên, xã hội đến chủ trương, chính sách để tiến hành xanh hóa nền kinh tế. Chúng ta có nhiều lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên, khu dự trữ sinh thái; tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học, sinh khối từ gỗ, phụ phẩm công nghiệp tương đối cao; môi trường chính trị xã hội ổn định; quan hệ quốc tế mở rộng… Tuy nhiên, con đường tiến tới “nền kinh tế xanh” của Việt Nam đang đối diện với nhiều thách thức. Hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp, thiệt hại kinh tế do ô nhiễm suy thoái ở mức cao (-11,54%).

 

Ngoài ra, công nghệ sản xuất nước ta còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng. Do đó, chất lượng sản phẩm thấp, phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm suy thoái môi trường, kèm với đó là tốc độ gia tăng phát thải khí nhà kính cao. Các ngành kinh tế “nâu” đang chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Đa dạng sinh học suy giảm, tài nguyên không tái tạo cạn kiệt, tác động biến đổi khí hậu gia tăng… là hiện trạng của nước ta. Các ngành sản xuất năng lượng tái tạo như, năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt, thủy triều… tại Việt Nam cũng chưa phát triển, trừ thủy điện thì hầu như  đã sử dụng tới mức giới hạn cho phép . Thêm vào đó, nhiều ngành hỗ trợ, giải quyết vấn đề môi trường, dịch vụ môi trường, công nghiệp tái chế… còn yếu kém.

 

Để xây dựng mô hình phát triển nền "kinh tế xanh", Việt Nam cần thay đổi nhận thức cho tất cả mọi người. Nhà nước cũng có thể hình thành môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi để nền "kinh tế xanh" có điều kiện phát triển. Theo đó, chúng ta cần đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ năng lượng tái tạo, sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng, giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Bên cạnh đó, việc hạn chế tối đa gây ô nhiễm môi trường, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; đổi mới quy hoạch sử dụng đất cũng là những việc làm cần thiết... 

        
VIII. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH Ở VIỆT NAM


Trải qua 24 năm đổi mới và mở cửa phát triển Kinh tế, Việt Nam cũng đã phải trả giá cho suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Nằm trong xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới với sự điều chỉnh về mô hình phát triển và thay đổi cơ cấu ngành nghề. Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), do vậy phát triển kinh tế của Việt nam phải tuân theo những nguyên tắc chung của những cam kết với WTO trong xu thế phát triển Hội nhập toàn cầu. Hơn nữa Việt nam được xếp vào danh sách một trong năm nước chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, do vậy hướng tới nền “Kinh tế Xanh” là lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên sự lựa chọn này cần phải nhìn nhận rõ những cơ hội và thách thức để định hướng cho phát triển.
 

        
1. Về cơ hội

 

- Hiện nay sự quan tâm lớn nhất của cộng đồng thế giới là “Biến đổi khí hậu”. Nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, các quốc gia đang có nhiều nỗ lực, trong đó phát triển kinh tế cac bon thấp, tăng trưởng xanh đang là những xu hướng mới trong lộ trình tiến tới “Nền Kinh tế Xanh”. Việt nam sẽ đón nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế trên thế giới trong nỗ lực chung giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu trên cơ sở hướng tới “Nền Kinh tế Xanh”.

 

- Việt nam đang có những thay đổi cơ bản sau 24 năm “Đổi mới và mở cửa”, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một sự phát triển vì con người, những yếu tố đó được thực hiện trong một môi trường chính trị ổn định là cơ hội tốt cho triển khai thực hiện “Nền Kinh tế Xanh”.

 

- Tiếp tục triển khai, thực hiện chiến lược  phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2011-2015 . Hội nghị lần thứ 3 BCHTW Đảng Cộng Sản Việt nam đã khẳng định: đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo phúc lợi và an sinh xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Như vậy Việt nam sẽ đẩy mạnh “Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng” trong thời gian sắp tới. Đây là cơ hội để Việt Nam hướng tới “Nền Kinh tế Kanh” và “Tăng trưởng xanh”.

 

- Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng trong những năm vừa qua tạo ra nội lực cho một xu thế phát triển mới. Những vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường và suy giảm tài nguyên trong thời gian phát triển vừa qua đối với đất nước. Hướng tới một nền Kinh tế Xanh sẽ được sự đồng thuận cao của xã hội. Sau một thời gian phát triển từ khi đổi mới và mở cửa, người dân đã nhận thức được sự trả giá của mô hình phát triển của nền “kinh tế nâu”.

 

- Với lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa Đông Nam Á, có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào, năng lượng gió phong phú, sinh vật tăng trưởng nhanh là cơ hội cho Việt nam tham gia vào các chương trình mục tiêu thiên niên kỷ để hướng tới “Nền Kinh tế Xanh”.

 

2. Thách thức

 

Bên cạnh những cơ hội như đã nêu ở trên, thực hiện “Nền Kinh tế Xanh”, Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức đòi hỏi phải vượt qua như sau:

 

- Trước hết, về nhận thức, hiểu thế nào là một nền “Kinh tế Xanh” hiện nay ở Việt nam vẫn còn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện.

 

- Thứ hai, về cách thức tiến hành, so với nền kinh tế truyền thống-“Nền kinh tế nâu”, xây dựng mô hình mới-“Nền Kinh tế Xanh”, thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế có sự khác biệt như thế nào và bắt đầu từ đâu trong bối cảnh phát triển kinh tế Việt nam hiện nay.

 

- Thứ ba, nền Kinh tế Xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, cac bon thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường…. Thực tế công nghệ sản xuất ở Việt nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền Kinh tế Xanh là thách thức không nhỏ nếu không có trợ giúp của các nước có công nghệ cao trên thế giới. Nhiều vùng nông thôn và khu vực miền núi, sinh kế người dân còn gặp nhiều khó khăn.

 

- Thứ tư, về huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu “Xây dựng nền kinh xanh”, mặc dù Việt nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ quốc gia so với các nước đã phát triển còn quá thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai hướng tơi “Nền Kinh tế Xanh”.

 

- Thứ năm, Cơ chế chính sách hướng tới thực hiện “Nền Kinh tế Xanh” ở Việt nam hiện nay gần như chưa có, trong khi trên thế giới cũng mới đề xuất hướng tiếp cận. Việc rà soát lại cơ chế chính sách liên quan và sửa đổi bổ sung cho phù hợp với mô hình phát triển mới theo hướng cơ cấu lại ngành kinh tế và hướng tới nền “Kinh tế Xanh” là thách thức không nhỏ.

 

3. Định hướng thực hiện nền Kinh tế Xanh ở Việt Nam

 

Để thực hiện nền “Kinh tế Xanh” ở Việt nam những định hướng cơ bản sau đây cần thực hiện.

 

- Về cơ chế chính sách, trên cơ sở cương lĩnh định hướng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt nam giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2020, Việt nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Cơ chế chính sách cần tập trung vào tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới mô hình tăng trưởng, trọng tâm là cơ cấu lại ngành nghề, ưu tiên phát triển các ngành có công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường; Sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên;  Không gây ô nhiễm môi trường; Phục hồi tài nguyên và các hệ sinh thái.

 

- Về nhận thức, tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi nhận thức trước đây của xã hội từ nền “Kinh tế Nâu” sang nền “Kinh tế Xanh” để tạo ra một sự đồng thuận cao trong xã hội từ lãnh đạo đến người dân và doanh nghiệp, từ đó thay đổi quan niệm và nhận thức về một “Nền Kinh tế Xanh”. Trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, đổi mới giáo trình, bài giảng theo hướng tiếp cận phát triển “Nền Kinh tế Xanh”. Nâng cấp nội dung “Kinh tế môi trường” và “Kinh tế tài nguyên thiên nhiên” truyền thống theo hướng giảng dạy “Kinh tế Xanh” .

 

- Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của “Nền Kinh tế Xanh” như sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính; hạn chế tối đa gây ô nhiễm môi trường; Phục hồi hệ sinh thái tự nhiên.

 

- Cải cách lại hệ thống thuế tài nguyên và xem xét lại thuế môi trường hướng tới phát triển nền Kinh tế Xanh được điều chỉnh thông qua công cụ tài chính và thuế khóa nhằm khuyến khích tiết kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên quý hiếm, bảo vệ môi trường.

 

- Đối với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần có sự đổi mới, xem xét lại và hoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh, cải tiến hệ thống tài khoản quốc gia  phản ánh đủ các chỉ tiêu tính toán môi trường trong hạch toán cân đối tài khoản quốc gia.

 

- Rà soát, xem xét lại cơ chế chính sách đã có liên quan đến dịch vụ hệ sinh thái và đầu tư cho phát triển rừng thời gian vừa qua, gắn phát triển rừng với xóa đói giảm nghèo.

 

- Dựa vào tiêu chí quốc tế như đã dự tính của UNEP, đầu tư công toàn cầu 2% GDP cho phát triển Kinh tế Xanh, tổng kết thời gian vừa qua mức độ đầu tư cho môi trường ở Việt nam còn thiếu hụt bao nhiêu để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.

 

- Tích cực hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng “Nền Kinh tế Xanh” ở Việt nam, huy động các nguồn lực hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển Kinh tế Xanh. 

        
4. Kết luận

 

Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới phát triển “Nền Kinh tế Xanh” là hướng tiếp cận mới, tuy nhiên xét về dài hạn đây là hướng tiếp cận phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu. Hơn nữa Việt nam là quốc gia phát triển sau, do vậy để rút ngắn khoảng cách phát triển và tiếp cận với một nền kinh tế hiện đại, văn minh và phát triển bền vững cần hướng tới một “Nền Kinh tế Xanh”. Tuy nhiên mô hình phát triển và cơ cấu ngành nghề thế nào phù hợp với “Nền Kinh tế Xanh” trong điều kiện phát triển của Việt nam cần phải tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện, học tập cách thức tiến hành của các quốc gia đã đi trước để từ đó có lộ trình và bước đi phù hợp.

GS. TSKH. Phạm Ngọc Đăng, Phó Chủ Tịch Hội BV Thiên nhiên & Môi trường Việt nam
TÁI CHẾ ĐƠN GIẢN THẾ

Gửi ý kiến bạn đọc về: Báo cáo của GS. TSKH Phạm Ngọc Đăng nhân Ngày Môi trường thế giới (5/6/2012)

* *
*
*
Chọn file
(File: .Zip - 2M)
(Tin Môi Trường hoan nghênh các ý kiến đóng góp của bạn đọc cho bài viết. Các thảo luận sẽ được xem xét trước khi đăng tải. Tin Môi Trường giữ quyền từ chối những lời lẽ xúc phạm cá nhân, tổ chức; lời lẽ trái thuần phong mỹ tục, vi phạm pháp luật. Bạn đọc thảo luận bằng tiếng Việt có dấu. Ý kiến không nhất thiết thể hiện quan điểm của Tin Môi Trường. Cám ơn sự đóng góp và hợp tác của các bạn)
 SHIP TRUNG VIỆT
Không xả rác
VACNECPECO
 Những chính sách đáng chú ý có hiệu lực từ tháng 8

Những chính sách đáng chú ý có hiệu lực từ tháng 8

(Tin Môi Trường) - Ba luật về đất đai, nhà ở; kiểm kê đất đai toàn quốc; các trường hợp di dời khẩn cấp nhà chung cư, đăng ký xe bằng dịch vụ công trực tuyến; các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất, có hiệu lực từ tháng 8.

Tin Môi Trường
VACNE 30 năm
KHÔNG XẢ RÁC BỪA BÃI