(Tin Môi Trường) - Gò Công (Tiền Giang) có các địa danh lịch sử nổi tiếng đó là lăng Hoàng gia, đền thờ Trương Định và ao Trường Đua… Nếu chưa đến hết 3 nơi đó thì coi như chưa biết Gò Công.
Lăng Hoàng gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng,
trong đó có ông Phạm Đăng Hưng là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ
Dụ (dân gian gọi Từ Dũ), vợ vua Thiệu Trị. Nơi đây lưu truyền huyền thoại Gò Sơn
Qui, lưu truyền văn bia kỳ lạ lưu lạc trên 140 năm…
Những phù điêu trang trí theo phong cách phương Tây trước mộ ông Phạm Đăng Hưng.
Phạm Đăng Hưng - một nhà tư tưởng của triều Nguyễn
Lăng Hoàng gia được xây dựng năm 1926, là lăng mộ và
đền thờ
ông Phạm Đăng
Hưng. Ông Phạm Đăng Hưng sinh ra tại Gò Sơn Qui, vào năm 1764 (nay là ấp Lăng
Hoàng Gia, xã Long Hưng, TX Gò Công - Tiền Giang). Ông là người thông minh, văn
võ song toàn. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường,
nổi tiếng ">
nổi tiếng
hiền đức
và siêng năng.
Ông có 4 người con làm quan to trong triều Nguyễn. Vua Minh Mạng kết thông
gia gả công chúa cho con trai ông là Phạm Đăng Thuật và phong chức Phò mã Đô úy.
Vua Minh Mạng cũng cưới con gái của ông là Phạm Thị Hằng (sinh năm 1810, tức bà
Từ Dũ sau này) cho Hoàng tử Miên Tông, sau này là vua Thiệu Trị.
Mùa hạ năm 1825, ông Phạm Đăng Hưng mất, được đưa về Gò Sơn Qui chôn cất.
Năm 1849, ông được vua Tự Đức truy phong Đức Quốc công.
Theo văn bia truy tặng Đức Quốc công của vua Tự Đức ban, do Phan Thanh Giản
soạn, kể lại sự nghiệp của ông có đoạn: “Ông sơ của ông là Phạm Đăng Khoa, là
người học rộng có tiếng văn chương thời Lê Anh Tông (1557- 1571). Họ Trịnh ức
hiếp vua Lê, gặp lúc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa dựng nghiệp, ông Phạm Đăng Khoa
đem cả họ vào theo. Ban đầu ở Ái Tử (Quảng Trị, thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đổi
thành Cựu Dinh, Phú Xuân đổi thành Chính Dinh), sau dời vào Phú Xuân (Huế). Ông
cố của Phạm Đăng Hưng là Phạm Đăng Tiên được bổ làm Huấn đạo, phủ Tư Nghĩa
(Quảng Ngãi) nhân đó dời nhà vào Mỹ Khê. Ông nội ông là Phạm Đăng Dinh thông
thạo nho học và y học, lấy hiệu là Huyền Thông Đạo nhân. Cha ông là Phạm Đăng
Long, địa phương gọi ông là Kiến Hòa tiên sinh”.
Cũng theo văn bia trên, Phạm Đăng Hưng sinh ra và lớn lên vào lúc Nguyễn
Phúc Ánh khởi nghiệp ở đất Gia Định để đánh lại Tây Sơn. Ông thừa hưởng sự giáo
dục của hai người thầy đất Nam Bộ là Nguyễn Bảo Trí và Võ Trường Toản. Năm Bính
Thìn 1796, ông đỗ Tam trường, được bổ làm lễ sinh ở phủ Gia Định.
Sau khi Gia Long lên ngôi, ông được bổ nhiệm làm trường đà (coi thuyền vận
tải) từ Nam ra kinh đô Phú Xuân.
Cuối đời, ông được thăng lên tới Thượng thư bộ Lễ, coi việc khâm thiên
giám. Ông là người giúp vua Gia Long, Minh Mạng nghiên cứu các điển lệ đưa về
gần với bản gốc đời Lê, trong lúc hơn trăm năm loạn lạc đã bị sai lệch.
Ông là người nghiên cứu Tiên Nho (Khổng Tử, Mạnh Tử), Chân Đức Tú - một học
trò xuất sắc của Chu Hy đời Tống để tổng hợp nên một nền Nho học riêng cho triều
Nguyễn: kết hợp Tiên Nho với Tống Nho làm nền tảng tư tưởng. Ông là người khởi
xướng một số bộ sách có giá trị thời Nguyễn. Ngày 14-6 năm Ất Dậu (tức
29-7-1825), ông mất vì bệnh tại Huế, thọ 60 tuổi.
Ông được Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức phong tặng nhiều danh hiệu.
Huyền thoại dòng họ Phạm Đăng
Dân gian Nam Bộ còn có nhiều câu chuyện truyền miệng về “ông Ba Bị”. Chuyện
kể rằng, thời mở đất, dân gian thường thấy một người luôn mang trong mình ba cái
bị lớn (giống như bao tải nhưng có quai đeo bên mình). Con nít khóc dỗ không nín
người ta thường nói: “Ngủ đi! Ông Ba Bị tới kìa!” Ông Ba Bị đi đến đâu thì con
nít sợ lắm. Người lớn thì ngược lại, bởi ông mang đủ loại hạt giống đi phát cho
dân và hướng dẫn cách trồng. Nhà nào quá nghèo, ông Ba Bị cho người mang gạo đến
giúp.
Người Gò Công kể rằng, ông Phạm Đăng Long tức Kiến Hòa tiên sinh, cha ông
Phạm Đăng Hưng là người giỏi Nho học, tinh thông phong thủy, địa lý của Lão học,
đi nhiều nơi tìm thế đất tốt để định cư, mong con cháu phát tích.
Lúc ông đến Gò Rùa (Sơn Qui), thấy thế đất rất đẹp nhưng toàn vùng Gò Công
lúc bấy giờ không có chỗ nào đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát hiện
ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Qui. Ông quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò
đất này.
Sau đó, ông sinh ra Phạm Đăng Hưng. Tương truyền trước khi sinh bà Phạm Thị
Hằng (Từ Dũ) thì có một vầng trăng chiếu sáng lòa cả Gò Sơn Qui, nên bà ông Đăng
Hưng đặt cho bà tên Hằng. Hiện nay, tại lăng Hoàng Gia, phía sau nhà thờ, nơi
nền nhà xưa vẫn còn cái giếng cổ, nước trong vắt và ngọt lịm. Trong cuốn sách cổ
“Từ Dụ - Hoàng Thái hậu truyện” của soạn giả Nguyễn Liên Phong in năm 1913 có
hai câu:
Lộ thủy trình tường ngoại
Quy khâu trúc phước cơ
Tạm dịch là:
Nước ngọt điềm lành ngoại
Gò Rùa mọc phước cơ
Ly kỳ chuyện tấm bia vua Tự Đức ban cho ông ngoại
Đến thăm mộ ông Phạm Đăng Hưng, từ ngoài bước vào, du khách sẽ bắt gặp bên
trái có một nhà bia. Bên dưới là tấm bia bằng đá trắng Quảng Nam, đã mòn theo
thời gian, nhưng thật kỳ lạ: phía trên có hình cây thánh giá màu đen, bên dưới
là dòng chữ Pháp ghi “Đây là nơi an nghỉ của Trung úy Barbé”. Nhìn sâu vào trong
là một bài văn bia chi chít chữ Hán?
Bia đá này do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào năm Tự Đức thứ
10 (1857) nhằm ca ngợi công đức của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng. Vua Tự Đức sai
chở bằng thuyền từ Huế vô Gò Công. Nhưng cái bia đá mất tích một cách bí hiểm.
Đến lúc trùng tu lăng Hoàng gia, năm 1899, vua Thành Thái cho dựng nhà bia bên
phải (từ ngoài nhìn vào) bằng đá hoa cương. Nội dung tấm bia này giống y tấm bia
Tự Đức ban cho ông ngoại.
Chuyện kể rằng, lúc giải tỏa nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (quận 1- TP Hồ Chí
Minh) để xây dựng Công viên Lê Văn Tám (khoảng 1983- 1986), người ta thấy còn
sót lại một tấm bia đá bỏ chỏng chơ. Có người phát hiện hàng chữ Nho sau hàng
chữ Pháp mới báo với Bảo tàng Thành phố. Khi các nhà nghiên cứu giám định mới té
ngửa là tấm bia ấy là của vua Tự Đức ban tặng cho ông ngoại Phạm Đăng Hưng.
Trong tác phẩm “Scènes de la vie Annamite” (NXB P.Ollendorff Paris 1884)
của 2 tác giả Le Vardier và De Maubryan có kể lại chuyện tình éo le của viên
Trung úy Barbé với cô gái Bến Nghé tên Thị Ba, người của nghĩa quân Trương Định.
Cô gái hẹn Trung úy Barbé ở đồn chùa Khải Tường (nay là Bảo tàng Cách mạng)
đến đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares - Thị Nghè) vào đêm 7/12/1860. Trên đường
đi, Barbé đã bị nghĩa quân
Trương Định
phục kích bất ngờ giết chết. Câu chuyện
tình này đời nay được tái hiện trong vở cải lương
nổi tiếng ">
nổi tiếng
ở Nam Bộ có tên
“Nàng Hai Bến Nghé” với diễn xuất tài năng của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu.
Liên kết các sự kiện, chính Barbé cướp tấm bia vào năm 1858 về đồn và 2 năm
sau y chết, người ta lấy tấm bia ấy làm bia mộ cho y. Đến khi nghĩa trang giải
tỏa mới phát hiện ra và năm 1998, Bảo tàng TP Hồ Chí Minh mới tặng lại Khu di
tích Lăng Hoàng gia. Đúng 140 năm sau tấm bia mới được đặt đúng vị trí của
nó.
Lăng mộ hoàng gia, một công trình kiến trúc độc đáo
Lăng mộ Hoàng gia được xây dựng từ năm 1826, do ông Phạm Đăng Tá - con trai
trưởng của Phạm Đăng Hưng - xây dựng trên phần đất 3.000 m2, ngay trên nền nhà
cũ của dòng họ Phạm Đăng.
Các nghệ nhân tài hoa bậc nhất chuyên xây dựng lăng tẩm, cung đình từ Huế
vào và nghệ nhân địa phương xây dựng nên công trình kiến trúc độc đáo mang đậm
phong cách cung đình. Năm 1849, vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước
Đức Quốc công, cho trùng tu, mở rộng nhà thờ, xây thêm tam cấp, cổng tam quan,
ban thần vị theo nghi thức cung đình:
- Gian chính giữa thờ Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả thờ Phước An hầu Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả ngoài cùng thờ Khả tự Phạm Đăng Tiên.
- Gian hữu thờ Bình thạnh bà Phạm Đăng Danh.
Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho
trùng tu. Đến năm Khải Định 1921, trùng tu một lần nữa.
Ngày 2/12/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin có quyết định công nhận Khu Lăng mộ
Hoàng gia là Di tích
lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ không xây theo
kiểu “ngưu phanh, mã phục” mà được xây theo kiểu dáng “đỉnh trụ” hình bát giác,
trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen.
Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới
có 5 con kỳ lân. “Ngũ đại thành xương - Tường lân ống hiện” (Năm đời danh giá
tốt đẹp - Điềm lành kỳ lân hiện ra).
Vòng quanh mộ ông Phạm Đăng Hưng có một số phù điêu trang trí như búp sen,
cá hóa long… lại mang phong cách điêu khắc phương Tây. Có lẽ ông Vua Khải Định
đã có một “tư vấn viên” người phương Tây nào chăng?
Về Gò Công thăm lăng Hoàng gia, khám phá ra nhiều điều thú vị. Dĩ nhiên
chúng ta cũng chưa thể nào hiểu hết những bí ẩn lịch sử, và chắc còn nhiều điều
bí ẩn trên vùng đất Nam Bộ này?