Tin môi trường - Cổng thông tin về môi trường Việt Nam

Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn

Động đất, sóng thần ở Việt Nam - Nguy cơ tiềm ẩn Tin mới nhất

(09:05:22 AM 08/09/2011)
(Tin Môi Trường) - Động đất, núi lửa và sóng thần là những dạng tai biến thiên nhiên xảy ra khá phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Hàng trăm trận động đất mạnh, núi lửa phun và những đợt sóng thần đã xảy ra trong thế kỷ qua đều gây ra những tổn thất nặng nề về người và của cải.

Động đất, sóng thần ở Việt Nam - Nguy cơ tiềm ẩn (Ảnh minh họa)

 

Tại Việt Nam , các hoạt động điều tra nghiên cứu về động đất và sóng thần đã được triển khai từ nhiều năm. Cho đến nay, đã có những kết quả nghiên cứu đánh giá về các thiên tai này cho toàn lãnh thổ. Tuy vậy, để đáp ứng yêu cầu phòng tránh và giảm nhẹ hậu quả của thiên tai một cách hiệu quả, cần có một chiến lược gồm nhiều nhiệm vụ, giải pháp được xác định trên cơ sở khoa học và thực tế phù hợp.


Hiểm họa khó lường



Theo PGS, TS Nguyễn Hồng Phương, Phó Giám đốc Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần - Viện Vật lý địa cầu - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam: mặc dù không nằm trên “ vành đai lửa” của các chấn tâm động đất mạnh trên thế giới, nhưng Việt Nam vẫn có mối hiểm họa động đất khá cao. Trong lịch sử đã từng ghi nhận một số trận động đất mạnh với cấp độ lên tới 6,7 – 6,8 độ richter. Đặc biệt, nh ững trận động đất mạnh nhất tập trung tại vùng Tây Bắc. Điển hình là hai trận động đất lớn: t rận động đất Điện Biên (năm 1935) với cường độ 6,75 độ Richter xảy ra trên đới đứt gãy sông Mã; trận động đất Tuần Giáo – Lai Châu (năm 1983) với cường độ 6,8 độ Richter, xảy ra trên đới đứt gãy Sơn La.



Các nhà địa chấn Việt Nam cũng đã nghiên cứu sự phân bố chấn tâm của các trận động đất đã xảy ra và chỉ ra rằng động đất mạnh chủ yếu tập trung ở các vùng: sông Mã suốt từ thượng nguồn đến Thanh Hóa; sông Đà từ Lai Châu đến Hòa Bình; sông Hồng – sông Chảy; Đông Triều từ Yên Thế – Nhã Nam đến Hòn Gai – Cẩm Phả; sông Cả – Rào Nậy và vùng ven biển Trung Bộ và Nam Bộ. Nhiều thành phố lớn ở Việt Nam, kể cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn có thể có nguy cơ động đất. Hà Nội hiện đang nằm trên vùng được dự báo phải chịu đựng chấn động lên tới cấp 8 (đã từng xảy ra vào các năm 1277, 1278 và 1285).


Cũng theo nhiều tài liệu lịch sử và kết quả điều tra hiện trường, các nhà khoa học nghiên cứu cổ sóng thần thuộc Viện Vật lý địa cầu cho rằng có dấu hiệu sóng thần tấn công một số khu vực bờ biển Việt Nam (ven biển Nghệ An) trong các khoảng thời gian từ 4500 - 4300; 4100 – 3900 và 900 – 600 năm về trước. Độ cao tối đa của sóng thần được ước lượng lên tới 10-15m. Nguyên nhân xảy ra sóng thần là do có ba trận động đất với cấp độ 7,5 độ richter tại vùng ven biển Nghệ An.


Tiến sĩ Vũ Thanh Ca, Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý Biển và Hải đảo - Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài Nguyên Môi trường) cho biết: bằng việc phân tích các hoạt động kiến tạo và diễn biến động đất trên Biển Đông đã xác định được 4 khu vực trong Biển Đông có khả năng xảy ra động đất tạo sóng thần, trong đó đới hút chìm Manila và đới đứt gãy 109 là có nguy cơ cao nhất.


Các nhà khoa học đã tính được sóng thần có độ lớn đáng kể trên Biển Đông có thể được tạo ra bởi động đất có cấp độ lớn hơn 7 độ rích te tại đứt gãy dọc bờ biển miền Trung Việt Nam; động đất có độ lớn hơn 8 độ rích te ở đới hút chìm Manila. Nếu động đất có độ lớn hơn 8,5 rích te xảy ra ở đới hút chìm Manila, độ lớn cực đại của sóng thần tại bờ biển từ Đà Nẵng tới Bình Thuận có thể hơn 4 mét và tại một số vị trí có thể hơn 5 mét. Độ dài bờ biển có độ cao sóng thần hơn 1 mét kéo dài khoảng 1.000 km, từ Quảng Bình tới Bình Thuận. Như vậy là có tiềm ẩn nguy cơ về sóng thần đối với bờ biển Việt Nam .


Xây dựng chiến lược ứng phó



Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Công Quế, Viện Vật lý địa cầu – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng, để ứng phó, phòng chống và giảm thiểu thiệt hại do các thiên tai động đất sóng thần gây nên, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược gồm nhiều nhiệm vụ và giải pháp được xác định trên cơ sở khoa học và thực tế phù hợp. Đồng thời, chiến lược này cần phải được chỉ đạo triển khai đồng bộ và phối hợp nhịp nhàng với những bước đi hợp lý mới có thể đạt được hiệu quả mong muốn. Theo Giáo sư, chiến lược này dựa trên cơ sở pháp lý là các quyết định Chính phủ ban hành “ Quy chế báo tin động đất và cảnh báo sóng thần” và “ Quy chế phòng chống động đất, sóng thần”.
 


Chiến lược có nội dung gồm 5 điểm chỉ đạo và 3 mục tiêu chính nhằm giảm nhẹ hậu quả thiên tai phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược bao gồm: điều tra, nghiên cứu đánh giá toàn diện chế độ địa chấn - kiến tạo và địa động lực trên toàn lãnh thổ và các vùng biển của Việt Nam; phân tích vùng dự báo, đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần phục vụ cảnh báo giảm thiểu thiệt hại cho nhân dân và phục vụ quy hoạch và xây dựng các công trình kinh tế trọng điểm của đất nước; tổ chức và vận hành có hiệu quả hệ thống báo tin động đất cảnh báo sóng thần quốc gia theo đúng Quy chế đã được Chính phủ ban hành; quy hoạch xây dựng và phát triển kinh tế xã hội phù hợp trong vùng có nguy cơ động đất sóng thần; tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức và hiểu biết trog cộng đồng về nguy cơ động đất, sóng thần và cách thức ứng phó, giải pháp khắc phục hậu quả khi thiên tai xảy ra. Ngoài ra, cần xây dựng các công trình phòng ngừa động đất và sóng thần ở những vùng có nguy cơ động đất và sóng thần như hệ thống tháp báo động trực canh, hệ thống đê chắn và cản sóng, hệ thống rừng phòng hộ ven biển. Đồng thời, xây dựng các kịch bản, phương án ứng phó khi có báo động sóng thần hoặc khi động đât, sóng thần xảy ra.



PGS, TS Nguyễn Hồng Phương khẳng định: Sự phát triển hiện tại của khoa học chưa thể kiểm soát, dự báo và chỉ ra được chính xác địa điểm, cường độ và thời điểm xảy ra động đất cũng như hoạt động núi lửa và sóng thần. Do vậy, việc xây dựng một chiến lược phòng tránh và giảm nhẹ hậu quả động đât, sóng thần ở Việt Nam là rất cần thiết. Nhưng cộng đồng cũng cần nhận thức rõ về mối hiểm họa của các thiên tai để chuẩn bị về mặt tâm lý, cũng như kinh nghiệm ứng phó đối với những “ kẻ thù giấu mặt” này.

Thu Phương/TTXVN