Tin môi trường - Cổng thông tin về môi trường Việt Nam

Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn

Để hạn mặn không còn là nỗi ám ảnh của miền Tây

(07:04:50 AM 29/04/2024)
(Tin Môi Trường) - Cứ mỗi mùa khô đến, tin tức về hạn mặn lại dồn dập và đã trở thành nỗi ám ảnh kinh niên ở miền Tây. Vậy có con đường nào để thoát nỗi ám ảnh này?

Xâm nhập mặn bình thường và bất thường

 
Ở vùng ven biển ĐBSCL, trong điều kiện tự nhiên bình thường, luôn luôn có một vành đai mặn vào mùa khô khoảng vài chục km. Biên mặn ngọt ven biển ở vùng cửa sông Cửu Long là sự tranh chấp của lực sông và lực biển. Khi nào sông yếu, biển mạnh thì mặn lấn sâu; khi nào biển yếu, sông mạnh thì mặn lùi ra phía biển. Biên mặn ngọt dao động theo 4 loại chu kỳ: chu kỳ ngày theo con nước lớn, ròng mỗi ngày 2 lần; chu kỳ tháng theo con nước rong, nước kém mỗi tháng 2 lần; chu kỳ năm theo mùa khô, mùa mưa mỗi năm 1 lần; chu kỳ nhiều năm theo chu kỳ ENSO của khí hậu. Năm nào có thời tiết El Nino mưa ít thì mặn lấn sâu, ngược lại năm nào có La Nina mưa nhiều thì mặn bị đẩy ra phía biển.
 
Để hạn mặn không còn là nỗi ám ảnh của miền Tây
Sụt lún đất nghiêm trọng ở vùng ngọt hóa H.Trần Văn Thời (Cà Mau) trong mùa khô năm 2024
 
Năm nay, ĐBSCL lại trải qua một mùa khô với thời tiết El Nino nắng nóng. Hạn mặn năm nay đến khá muộn so với hằng năm, vì mùa lũ 2023 đạt đỉnh muộn khoảng 1 tháng so với trung bình nhiều năm. Do đó, phần đuôi của mùa lũ 2023 đã lấn sang đầu mùa khô 2024. Mực nước sông Mê Kông năm nay cũng không quá cạn kiệt. Đến tháng 3, nắng nóng và hạn mặn bắt đầu gay gắt, nhưng không cực đoan như mùa khô năm 2016 và năm 2020.
 
Ở vùng cửa sông Cửu Long, ranh giới hạn mặn dao động vào ra theo thủy triều hằng ngày, hằng tháng và theo lượng nước từ trên đổ về. Có những lúc mặn thọc sâu vào đất liền theo các nhánh chính sông Cửu Long với khoảng cách tương đương năm 2016, nhưng đó là dao động theo thủy triều. Việc mặn có lúc thọc sâu có thể do 2 nguyên nhân. Một là thủy triều ven biển mùa khô năm nay cao hơn trung bình nhiều năm nên thủy triều đẩy mạnh hơn vào các cửa sông. Hai là thủy triều không có không gian lan tỏa. Trước đây, thủy triều vào các cửa sông lan tỏa vào các sông nhánh, bị mất năng lượng nên vào chậm hơn và ít sâu hơn vào đất liền. Nay các nhánh sông ven biển đều có đê bao ven sông để ngăn triều và các cống ngăn mặn. Khi các cống đóng chặt thì thủy triều chỉ ở trong lòng sông chính nên thọc mạnh vào đất liền. Điều đó cho thấy, khi chúng ta càng cố thủ ngăn mặn ven biển thì chúng ta đã dịch chuyển vấn đề mặn vào sâu hơn trong đất liền.
 
Vùng bán đảo Cà Mau, nơi không hoặc ít nhận nước ngọt từ sông Cửu Long, thì hạn mặn vùng này chịu ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng làm nguồn nước mưa bốc hơi nhanh, chứ không liên quan đến mực nước và thủy điện sông Mê Kông.
 
Chuyện sụt lún vùng ngọt hóa
 
Mùa khô năm nay, miền Tây lại chứng kiến hiện tượng sụt lún đất nghiêm trọng trong các vùng ngọt hóa. Điển hình là vùng ngọt hóa Trần Văn Thời (Cà Mau) - hiện tượng từng xảy ra vào mùa khô 2020 ở H.Trần Văn Thời và H.Gò Công (Tiền Giang).
 
Nguyên nhân của hiện tượng sụt lún này khá đơn giản. Trước đây, các vùng này có 2 mùa mặn, ngọt. Mùa mưa thì ngọt nhờ nước mưa. Đến mùa khô, khi nước mưa bốc hơi hết thì còn lại nước mặn từ biển vào. Sau khi các vùng này được bao đê trữ nước mưa để ngọt hóa quanh năm thì nước mặn không còn vào nữa. Trong những năm El Nino khô hạn cực đoan, lượng nước mưa từ mùa mưa trước đã bị cạn kiệt ngay đầu mùa khô năm sau nên kênh mương nội đồng bị cạn, có khi đáy kênh cũng nứt đất làm cho đất bị co ngót dẫn đến sụt lún toàn vùng. Ở những nơi đắp đất làm đường giao thông ven kênh thì sụt lún càng mạnh hơn, làm hư hại đường sá. Hiện tượng sụt lún ở vùng ngọt hóa Trần Văn Thời hoàn toàn không liên quan gì đến mực nước sông Mê Kông.
 
Trong bối cảnh nước biển ngày càng dâng cao hơn, cả đồng bằng đang chìm xuống và sự xuất hiện các năm El Nino nắng nóng cực đoan thường xuyên thì các vùng ngọt hóa này ngày càng mong manh hơn, khó duy trì được mãi.
 
Để hạn mặn không còn là nỗi ám ảnh của miền Tây
Hơn 80 tuyến kênh, rạch ở H.Trần Văn Thời (Cà Mau) bị khô cạn, có nơi trơ đáy trong mùa khô năm 2024 - ảnh: GIA BÁCH
 
Để không còn bị ám ảnh bởi hạn mặn
 
Quy hoạch tích hợp chia ĐBSCL thành 3 vùng. Vùng lõi ngọt ở phía thượng lưu là vùng luôn luôn có nước ngọt, kể cả những năm cực đoan; vùng này ưu tiên cho cây lúa, cây trái, thủy sản nước ngọt. Tiếp đến là vùng lợ với chế độ nước luân phiên, nước ngọt vào mùa mưa có thể trồng lúa, nước mặn - lợ vào mùa khô. Ở vùng này, cần chuyển đổi hệ thống canh tác sang thuận theo nước lợ - mặn vào mùa khô. Vùng sát ven biển, mặn quanh năm thì phát triển hệ thống canh tác thích ứng với chế độ mặn quanh năm.
 
Vậy, để thích ứng với hạn mặn cho ĐBSCL thì có 2 lựa chọn. Một là tiếp tục con đường cũ, tiếp tục "chiến đấu" với hạn mặn bằng công trình thì mỗi mùa khô ĐBSCL sẽ lại "oằn mình" chống hạn mặn và hạn mặn sẽ là nỗi ám ảnh triền miên. Còn nếu thực hiện đúng phân vùng theo quy hoạch tích hợp ĐBSCL theo tinh thần "thuận thiên" của Nghị quyết 120, thì không cần phải "oằn mình" chống hạn mặn nữa, mà còn có thể tận dụng cơ hội kinh tế của nước mặn - lợ.
 
Khi đã chuyển đổi sản xuất thuận theo mùa hạn mặn, vấn đề còn lại là giải quyết nước sinh hoạt cho người dân. Việc này cần được tách riêng khỏi các công trình ngăn mặn phục vụ sản xuất, vì nước bên trong các công trình ngăn mặn bị tù đọng, ô nhiễm, không phù hợp cho sinh hoạt.
 
Để giải quyết nhu cầu nước sinh hoạt thì có nhiều cách đa dạng, áp dụng cách làm truyền thống, chứa nước mưa ở gia đình, mương, ao hồ gia đình và cộng đồng; các công nghệ hiện đại như màng lọc nano, công nghệ bốc hơi nước, lọc nước biển, hệ thống cấp nước tập trung. Nhu cầu nước sinh hoạt cho vùng ven biển là chuyện dĩ nhiên của mỗi mùa khô, do đó cần được ưu tiên, cần được chuẩn bị chứ không nên là sự bất ngờ vào mỗi mùa khô đến.
Th.S Nguyễn Hữu Thiện