(Tin Môi Trường) - Trong bối cảnh thực tế hiện nay, để làm chủ biển khơi thì nhiệm vụ điều tra tài nguyên biển là một nhiệm vụ trong yếu, nhưng để làm tốt công việc nhà nước gia thì những người thực thi không thể chỉ điều tra bằng khẩu hiệu, trên giấy và tận dụng bằng nhiệt huyết, mà rất cần sự đầu tư đồng bộ về vật chất và chế độ đãi ngộ với người trực tiếp làm công tác điều tra TN&MT biển.
Dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia đầu ngành về địa chất, môi trường biển, các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm đã có những bước trưởng thành vượt bậc trong xử lý, minh giải tài liệu để làm rõ bức tranh cấu trúc, kiến tạo của tầng phủ đáy biển. Các đứt gãy kiến tạo đã được phát hiện chính xác thông qua các tài liệu địa vật lý biển. Các học thuyết, quan điểm hiện đại của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã được cán bộ kỹ thuật của Trung tâm sử dụng nhuần nhuyễn trong xử lý, minh giải các băng địa chấn (phân tích địa tầng phân tập, phục hồi các cấu trúc cổ địa lý…).
Nhiều nhà địa chất biển không giấu nổi xúc động khi được chứng kiến các băng địa chấn phản ánh cấu trúc địa chất tầng phủ sinh động như những bức tranh phản ánh lịch sử hình thành của đáy đại dương trong giai đoạn từ 2,56 triệu năm trước đến nay. Hàng loạt những dấu hiệu đánh dấu sự có mặt của các tài nguyên năng lượng mới (GH) trên vùng biển Việt Nam đã được phát hiện: Các bề mặt phản xạ mô phỏng đáy (BSR), biểu hiện cột khí, các "điểm rỗ" (pockmark) trên tài liệu địa vật lý.
Song song với đó, cũng đã xác định được các điểm có biểu hiện dị thường khí mê tan trong trầm tích và nước sát đáy. Đồng thời, lập được mặt cắt tổng hợp cho các tuyến khảo sát và xác định được các dấu hiệu địa vật lý chỉ thị GH. Kết quả điều tra sơ bộ đã cho phép khoanh định được 4 khu vực có khả năng tồn tại GH với những dấu hiệu tiềm năng khác nhau. Những tài liệu này hoàn toàn phù hợp với những dự báo về tiềm năng to lớn về nguồn năng lượng mới này trên Biển Đông.
Tuy là kết quả bước đầu song lại rất có ý nghĩa và đặc biệt quan trọng khi nguồn tài nguyên dầu mỏ dần suy giảm và việc khai thác các nguồn tài nguyên khác dễ gây ONMT. Trung tâm đang tích cực tổ chức triển khai điều tra cơ bản làm rõ triển vọng GH trên các vùng biển sâu thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Đó là một trong những thành tựu đáng ghi nhận của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên –Môi trường biển khu vực phía Bắc trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, trong bối cảnh thực tế hiện nay, để làm chủ biển khơi thì nhiệm vụ điều tra tài nguyên biển là một nhiệm vụ trong yếu, nhưng để làm tốt công việc nhà nước gia thì những người thực thi không thể chỉ điều tra bằng khẩu hiệu, trên giấy và tận dụng bằng nhiệt huyết, mà rất cần sự đầu tư đồng bộ về vật chất và chế độ đãi ngộ với người trực tiếp làm công tác điều tra TN&MT biển.
Hiện Trung tâm đang gặp những bất cập. Trong cơ chế thị trường, việc giữ cán bộ kỹ thuật năng lực, khả năng tham gia khảo sát ở các vùng biển sâu, xa bờ gặp rất nhiều khó khăn do chế độ đãi ngộ theo quy định của Nhà nước còn thấp. Đặc thù của nghề điều tra TN&MT biển là làm việc trong điều kiện lao động công việc đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm. Thường xuyên làm việc trên biển, chịu áp lực sóng biển, gió biển, độ rung lắc mạnh, độ ồn cao, hơi nước mặn. Tuy thực hiện công việc khảo sát trên biển, nhưng mức bồi dưỡng cho CBVCNLĐ của Trung tâm tại các vùng biển xa bờ đến độ sâu 2500m nước cũng lại thuộc mức thấp (65.000đ/ngày), quá thấp so với mặt bằng chung của lao động làm việc tại các giàn khoan, tàu dịch vụ vận tải, công nhân các trạm đèn nằm biệt lập chỉ cách đất liền 20 hải lý…
Trong thực tế, để tận dụng các khoảng thời gian thời tiết biển thuận lợi cho khảo sát, Trung tâm thường phải tổ chức thi công liên tục 24/24g theo nhiều kíp. Mỗi chuyến khảo sát trung bình 25-30 ngày/đêm, thậm chí còn nhiều hơn nếu điều kiện thời tiết cho phép. CBVCNLĐ Trung tâm hết sức cố gắng nỗ lực tranh thủ thời tiết thuận lợi, tăng thời gian, làm tăng kíp để hoàn thành nhiệm vụ, tiết kiệm chi phí thuê tàu nhưng bản thân thì lại chịu thiệt thòi khi quy định hiện tại chi cho phép thanh toán tiền ăn định lượng theo mức ăn định lượng trong 01 kíp/ngày.
Một nghịch lý đang tồn tại, càng tích cực tổ chức sản xuất tăng kíp (các tàu khảo sát tại vùng biển sâu xa bờ luôn hoạt động 24/24g trên biển), tiết kiệm chi phí thuê tàu khảo sát nhưng tiền bồi dưỡng đi biển (ăn định lượng) dù đã quá thấp nhưng vẫn không được tính theo thời gian thực tế. Trong khi đó, những khi thời tiết xấu, biển động không khảo sát được (bão, áp thấp, gió mùa kéo dài), chờ đợi tại cảng không làm ra sản lượng nhưng lại chịu nhưng chi phí đắt đỏ. Mặc dù, những kiến nghị đã qua bao nhiêu năm tháng, nhiều cuộc họp bàn cãi, đề xuất này đã trình lên cấp trên và các cấp chính phủ nhưng đến nay vẫn chưa phù hợp với thực tế, dẫn đến tình trạng nhiều viên chức, người lao động đã xin chuyển công tác, chấm dứt hợp đồng lao động.
Mặt khác, việc Nghị định Số 141/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác thay thế cho Nghị định 43/2006/NĐ-CP cũng là một bước lùi trong xây dựng củng cố đội ngũ điều tra TNMT biển. Nếu như trước đây theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, chênh lệch tiền lương (do tăng năng suất, tăng kíp) sẽ được phân phối bổ sung cho CBVCNLĐ thì hiện nay theo Nghị định 141/2016/NĐ-CP, việc chi trả tiền lương đơn vị chỉ được chi trả tiền lương theo lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định. Sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế (20% thuế thu nhập doanh nghiệp) và các khoản nộp NSNN khác (nếu có), phần chênh lệch thu lớn hơn chi thường xuyên, sau khi trích lập tối thiểu 25% quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp mới được trích bổ sung thu nhập cho người lao động.
Trung tâm được công nhận là đơn vị tự chủ chi thường xuyên đồng nghĩa với việc các nhiệm vụ Trung tâm thực hiện có định mức, đơn giá do nhà nước đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ đều được để chênh lệch thu chi. Tuy nhiên, đến nay nguồn kinh phí ngân sách cấp vẫn được giao và quyết toán ở mục nguồn kinh phí không thường xuyên. Các nhiệm vụ được giao mặc dù có định mức và đơn giá nhưng không được quyết toán ở nguồn kinh phí chi thường xuyên nên không có chênh lệch thu chi để trích lập các quỹ theo quy định, trong đó quỹ bổ sung thu nhập để chi thu nhập tăng thêm cho người lao động.
Bà Thanh Vân- Phòng Kế hoạch (Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên –Môi trường phía Bắc) cho biết: Nếu không có chênh lệch thu chi thì sẽ không chi trả thu nhập tăng thêm do tăng năng suất cho người lao động (người lao động chỉ được chi trả một lần tiền lương theo lương ngạch, bậc, chức vụ). Do đó, không bảo đảm đời sống cho người lao động đặc biệt là đời sống của các cán bộ kỹ thuật trẻ trực tiếp khảo sát trên biển sẽ trở lên bấp bênh.
Điều đó làm mất đi động lực làm việc, hiệu suất lao động giảm (thay vì phấn đấu tăng thời gian khảo sát trên biển thì chỉ còn làm việc 6 giờ/ca trên biển), chi phí sản xuất tăng lên nhiều do tăng chi phí thuê tàu, tăng chi phí bồi dưỡng đi biển,... Thu nhập thấp sẽ dẫn đến không còn thu hút được nguồn nhân lực có trình độ, kinh nghiệm. Hệ lụy tất yếu sẽ xảy ra đó là lực lượng cán bộ kỹ thuật sẽ rời đi tìm nơi làm việc khác có thu nhập đảm bảo cuộc sống hoặc chỉ thực hiện công việc theo định mức, giảm năng suất so với hiện nay dẫn đến tăng các chi phí khác của dự án do thời gian thực hiện nhiệm vụ tăng lên.
Ngoài những khó khăn nêu trên, hiện Trung tâm vẫn chưa có cơ chế cho đơn vị sự nghiệp tính khấu hao tài sản trong đơn giá sản phẩm dịch vụ công. Do đặc thù nhiệm vụ, Trung tâm phải quản lý một số lượng lớn máy móc thiết bị có giá trị cao. Các thiết bị của Trung tâm quản lý phải làm việc trong môi trường trên biển rất khắc nghiệt, mặc dù được Trung tâm bảo quản, sử dụng theo đúng các quy trình bảo quản, bảo dưỡng thiết bị nhưng các máy móc thiết bị (đặc biệt là các thiết bị điện tử công nghệ cao) này vẫn rất dễ gặp sự cố, hoạt động không ổn định do đặc thù của Việt Nam không khí có độ ẩm cao, và hàng năm đều phải sửa chữa.
Nhiều thiết bị phải gửi sang hãng sản xuất tại nước ngoài hoặc chờ đợi chuyên gia chính hãng sang thay thế sửa chữa. Trong khi đó, đơn giá sản phẩm được thanh toán hoàn toàn không có chi phí để sửa chữa thiết bị, kinh phí sửa chữa được cấp hàng năm quá ít, không đủ để trang trải chi phí sửa chữa. Bên cạnh đó, việc phải trình phê duyệt dự toán chi tiết nội dung sửa chữa ngay từ đầu, trước khi thực hiện là không phù hợp với thực tiễn, vì các hỏng hóc thường xuất hiện trong quá trình sử dụng thiết bị để thực hiện nhiệm vụ khảo sát và cần khắc phục ngay để hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn.
Để công tác điều tra cơ bản TNMT biển hiệu quả hơn, Nhà nước cần sớm quan tâm đầu tư trang thiết bị để tổ chức thực hiện các dự án với quy mô lớn hơn để đẩy nhanh tiến độ điều tra cơ bản về TNMT biển, đặc biệt là bảo đảm điều kiện cho tiến hành nghiên cứu, đánh giá tiềm năng tài nguyên biển ở các vùng biển sâu (trên 2.500m nước) và quốc tế liền kề. Sớm triển khai đầu tư cho Tổng cục B&HĐ Việt Nam đội tàu nghiên cứu, khảo sát chuyên dụng đáp ứng được yêu cầu điều tra cơ bản TNMT biển ở các vùng biển Việt Nam.
Điều chỉnh, thay đổi những chính sách không phù hợp, có chế độ đãi ngộ và thu hút đúng mức đối với đội ngũ làm công tác điều tra cơ bản về TNMT biển. Chỉ có những kết quả điều tra cơ bản này thì chúng ta mới hiểu rõ thêm về các vùng biển của mình, về tiềm năng, lợi thế của các vùng biển, các tài nguyên biển (đặc biệt là các tài nguyên vị thế có giá trị trường tồn), làm cơ sở xây dựng những quy hoạch khai thác sử dụng không gian biển, hạch định phát triển kinh tế biển một cách khoa học, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, hạn chế tối đa các xung đột.
Hy vọng với sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với định hướng phát triển kinh tế biển bền vững cuộc sống của CBVCNLĐ Trung tâm nói riêng và Ngành TNMT nói chung sẽ có sự thay đổi, khởi sắc. Sẽ hình thành đội ngũ nhân lực điều tra TNMT có chất lượng, ngang tầm với các nước trên thế giới.