(Tin Môi Trường) - Sau khi Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang phát biểu đang cho nuôi cá ngay ống xả thải của nhà máy giấy Lee&Man để cho cán bộ ăn với mục đích "kiểm tra nước xả thải của nhà máy", PGS-TS Lê Anh Tuấn đã có những chia sẻ về việc này.
Hồi tháng 9-2016, người đứng đầu Bộ Tài nguyên-Môi trường đã chỉ đạo Công ty Formosa - Hà Tĩnh phải xây hồ sinh học chỉ thị nuôi cá cạnh khu xử lý nước thải. Nước thải sau khi xử lý, nuôi cá sống khỏe mới được phép thải ra môi trường.
Mới đây, một lãnh đạo Sở NN-PTNT tỉnh Hậu Giang đang triển khai cho nuôi cá ngay ống xả thải của Nhà máy Giấy Lee & Man (đặt tại thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang) với mục đích "kiểm tra nước xả thải của nhà máy", đồng thời cho cán bộ có cá để ăn chứ không bán ra ngoài. Điều này làm kinh ngạc đối với nhiều người hiểu biết, chẳng biết các “sáng kiến” này dựa vào cơ sở khoa học nào? Cả người chỉ đạo cũng như thực hiện các đề xuất này cũng không nói rõ là sẽ nuôi cá gì trong hàng trăm loại thủy sản nước ngọt và nước mặn. Và ai trong nhóm cán bộ dưới quyền hưởng ứng việc tự nguyện ăn cá nuôi bằng nước xả thải của nhà máy công nghiệp?
PGS-TS Lê Anh Tuấn
Các học sinh phổ thông khi bắt đầu thực hành các thí nghiệm hóa học thì ngay giờ đầu tiên, các giáo viên thường nhắc nhở các biện pháp an toàn bản thân, hạn chế tối đa việc tiếp xúc hóa chất độc hại trực tiếp (qua da, qua tay, qua mắt), không hít, không ngửi (qua mũi), không nếm, không nuốt (qua lưỡi, qua miệng), … còn chuyện ăn (dù thực nghiệm ăn gián tiếp qua trung gian cơ thể một động vật khác) là cực kỳ tối kỵ, thì chưa có sách vở nào nói đến là có thể sử dụng hay ăn được (?).
Trong ngành độc học môi trường (Environmental Toxicology) đôi khi người ta cũng xem một số động hay thực vật có tính mẫn cảm mạnh hay khả năng thích ứng cao, làm những chỉ thị sinh vật (bio-indicators). Các loài này có thể tồn tại trong một số điều kiện nguồn nước bị ô nhiễm nhằm định mức chất lượng hoặc sự biến đổi của môi trường. Thông thường, các loài sinh vật được khảo nghiệm là các động và thực vật cấp thấp như các loại tảo (tảo lam, tảo lục, tảo silic, tảo mắt, …), bèo, phiêu sinh thực vật (phytoplankton), phiêu sinh động vật (zooplantonk), động vật nguyên sinh (protozoa), vi khuẩn hiếu khí (aerobic microorganisms, bacteria), một số động vật không xương sống (sò, ốc, trùng,…). Tất cả các loài này chỉ có thể chỉ thị ở một số chỉ tiêu nguồn nước ô nhiễm nhất định, chứ không thể là tất cả các chất gây độc.
Khó chấp nhận được khi lấy cá làm chỉ thị đánh giá độ an toàn của nước thải công nghiệp. Chưa có quốc gia trên thế giới nào lấy cá còn sống, bơi lội được làm tiêu chí khẳng định độ an toàn về chất lượng nước cho con người cả. Nhìn các kênh nước thải đen ngòm ở Hà Nội, Sài Gòn, Đồng Nai,… chắc chắc mức độ ô nhiễm đã vượt hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lần Quy chuẩn Việt Nam liên quan đến chất lượng nguồn nước, vậy mà trong nước vẫn thấy nhiều loài cá còn sống, thậm chí sinh sản. Cá chỉ chết hàng loạt khi oxy đột ngột giảm thấp hay bị một độc tố cực kỳ mạnh giết. Cá có thể bị phơi nghiễm do hấp thụ các độc chất, các vi lượng kim loại nặng… tích tụ trong các mô, trứng, gan, mỡ… Người ăn cá sẽ tiếp tục thu nhận các độc chất này, cũng tích tụ ở gan, mỡ, trứng, sữa, hoặc bào thai … trong cơ thể và có thể đến một lúc nào các độc chất sẽ tạo ra những chuyển hóa tế bào không kiểm soát, hình thành bệnh tật, ung thư cho người.
Tỉnh Hậu Giang có chủ trương nuôi cá tại ống xả thải của Nhà máy Giấy Lee & Man.Ảnh: CÔNG TUẤN
Trong các thí nghiệm về độc tố trong nguồn nước đối với một cá thể sinh vật nào đó, người ta dùng chỉ tiêu LD 50 (do JW Trevan đề xuất từ năm 1927). LD 50 là từ viết tắt của chữ medium letalis dosis (liều lượng gây chết trung bình), được định nghĩa là liều lượng chất độc gây chết cho một nửa (50%) số lượng cá thể dùng trong nghiên cứu sau một thời gian. Một ví dụ xem xét, theo Quy chuẩn Việt Nam 08-MT:2015/BTNMT, yêu cầu nước sau khi xử lý được phép xả ra môi trường khi nồng độ chì (Pb) phải nhỏ hơn 0,02 mg/L đối với nước loại A và nhỏ hơn 0,05 mg/L đối với nước loại B hay nồng độ thủy ngân (Hg) phải dưới 0,01 mg/L (nước loại A) – 0,02 mg/L (nước loại B) hay nồng độ phenol phải thấp hơn 0,005 – 0,01 mg/L, … nhưng đối với nhiều loại cá đen vẫn sống khỏe với nồng độ các chất này dù vượt hơn 10 lần. Công bố của Viện Y tế Công cộng TP HCM ngày 16-10-2012, với thực nghiệm LD 50 với cá vàng (Goldfish, một loài cá cảnh) trong nước có nồng độ phenol 125 mg/L thì cá vàng chết khoảng một nửa số lượng cá thể sau 24 giờ. Nghĩa là, với độc chất phenol gấp 125.000 lần mức QCVN 08-MT:2015/BTNMT cho phép xả thải ra nguồn nước thì mới có thể gây hại cho cá vàng. Trong khi đó, chỉ tiếp xúc một lượng nhỏ phenol qua da cũng có thể gây độc cấp tính, còn tiếp xúc mãn tính sẽ gây nguy cơ ung thư, đột biến gene cho các loài động vật có vú.
Các vị lãnh đạo và các nhà quản lý chính quyền có thể có những phát biểu để tạm yên lòng người dân (dù là phát biểu… ẩu), nhưng những vấn đề hệ trọng đối với sức khỏe con người, sức khỏe dòng sông, sức khỏe hệ sinh thái thì phải rất cẩn thận. Nếu không, hậu họa vô cùng lớn cho dân tộc, và cả đạo đức xã hội, mà khó đo đếm được. Một điều nữa, nếu người phát biểu tự tin thì có thể nuôi cá trong nước thải để ăn bản thân mình như một thực nghiệm hay chứng tỏ sự an toàn, nhưng đừng có yêu cầu cán bộ, nhân viên cùng ăn thì tội cho họ lắm, và cả gia đình họ nữa, nếu bản thân họ không thật sự muốn làm những con chuột bạch cho thí nghiệm sinh học và môi trường.
Một điều ngạc nhiên nữa, cũng cần phải nói cho rõ là, nghĩa vụ và trách nhiệm chứng minh khả năng xử lý nước đạt yêu cầu theo quy định Nhà nước là của chủ nhà máy. Bổn phận của chính quyền địa phương phải làm công việc giám sát và chế tài việc tuân thủ Pháp luật của nhà đầu tư. Hà cớ gì mà một ông Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (đáng lý phải tích cực bảo vệ nguồn nước, sông rạch cho người dân canh tác trong ngành nông nghiệp, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản của mình) lại đứng ra cho nuôi cá nơi họng xả nước thải, tự lấy cá ăn để rêu rao với mọi người là nhà máy công nghiệp này xử lý chất thải tốt lắm: “Cán bộ đều ăn cá ở đây… có ai chết đâu mà bà con sợ quá vậy!”
PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu-Trường ĐH Cần Thơ