Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn
Ảnh minh hoạ
* Nguy cơ thiếu hụt và suy thoái nguồn nước
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú cả về lượng mưa, nguồn nước mặt trong các hệ thống sông, hồ và nguồn nước dưới đất. Bao gồm 3.450 sông, suối với chiều dài từ 10 km trở lên. Các sông suối này nằm trong 108 lưu vực sông được phân bố và trải dài trên cả nước. Về lượng mưa trung bình năm của Việt Nam vào khoảng 1940-1960mm (tương đương tổng lượng nước khoảng 640 tỷ m3/năm), thuộc số quốc gia có lượng nước mưa vào loại lớn trên thế giới. Tuy vậy, lượng mưa của Việt Nam phân bố rất không đều theo không gian và thời gian. Lượng mưa tập trung chủ yếu trong 4-5 tháng mùa mưa (chiếm 75- 85% tổng lượng mưa năm), lượng mưa trong mùa khô chỉ chiếm 15- 25%. Khu vực có lượng mưa lớn là các khu vực phía Đông Trường Sơn thuộc vùng Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên và khu vực trung du, miền núi Bắc Bộ.
Về nước mặt: Tổng lượng dòng chảy hàng năm khoảng 830-840 tỉ m3, trong đó tập trung chủ yếu (khoảng 57%) ở lưu vực sông Cửu Long, hơn 16% ở lưu vực sông Hồng-Thái Bình, hơn 4% ở lưu vực sông Đồng Nai, còn lại ở các lưu vực sông khác. Nhưng lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm khoảng 310-315 tỷ m3/năm (khoảng 37%), chủ yếu thuộc các lưu vực sông Hồng-Thái Bình, Đồng Nai, Cả, Ba, Vũ Gia-Thu Bồn. Để đáp ứng các yêu cầu trữ lượng, điều tiết dòng chảy phục vụ cấp nước trong mùa khô và phòng, chống và giảm lũ, lụt trong mùa mưa, Việt Nam đã, đang và tiếp tục phát triển hệ thống các hồ chứa nước.
Theo kết quả thống kê, rà soát sơ bộ, cả nước có trên 2.900 hồ chứa thủy điện, thủy lợi đã vận hành, đang xây dựng hoặc đã có quy hoạch xây dựng với tổng dung tích trên 65 tỷ m3. Về nước dưới đất: Tiềm năng nguồn nước dưới đất của Việt Nam là tương đối lớn, ước tính khoảng 63 tỷ m3/năm, tập trung chủ yếu ở các khu vực đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên.
Nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhiều nhất ở hai vùng đồng bằng là đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, chiếm tỷ lệ 70% lượng nước sử dụng. Nước cũng đóng vai trò quyết định trong sự tăng trưởng các sản phậm cây công nghiệp, như chè, cà phê, hồ tiêu, mía đường, cao su... Nước cũng đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng của Việt Nam trong điều kiện nhu cầu về năng lượng không ngừng gia tăng. Tiềm năng thuỷ điện của Việt Nam là khá lớn, tập trung chủ yếu trên lưu vực sông Hồng, sông Đồng Nai và các lưu vực sông ở miền Trung và Tây Nguyên. Năm 2010, thuỷ điện đã đóng góp khoảng 40% tổng sản lượng điện toàn quốc. Dự báo tổng công suất thuỷ điện đến năm 2025 là 33.310MW, trong đó trên 80% trong số này là từ các nhà máy thuỷ điện xây dựng trên các sông của Việt Nam.
Đến nay hầu hết các thành phố, thị xã ở Việt Nam đều có hệ thống cấp nước tập trung và khoảng 300/635 thị trấn, thị tứ có dự án xây dựng hệ thống cấp nước tập trung. Tổng công suất thiết kế các nhà máy nước ở các khu vực đô thị đạt khoảng 5,4 triệu m3/ngày, nhưng mới chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu sử dụng nước của các đô thị. Với yêu cầu cấp nước cho khoảng 30 triệu người dân cùng với nhu cầu nước cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, vệ sinh môi trường tại các đô thị thì cần khoảng từ 8 đến 10 triệu m3/ngày.
Đối với khu vực nông thôn, đến nay có khoảng 62% dân số nông thôn được cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh, nhưng nếu xét theo tiêu chuẩn nước sạch thì tỷ lệ này chỉ đạt đạt khoảng 30%. Nguồn cấp nước cho sinh hoạt, vệ sinh của người dân ở nhiều đô thị và phần lớn khu vực nông thôn là từ nguồn nước dưới đất.
Ngoài ra, cũng không thể phủ nhận sự đóng góp quan trọng của nước trong sự tăng trưởng mạnh mẽ về sản lượng nuôi trông thủy sản trong những năm gần đây khi với mức tăng trưởng bình quân trên 12%/năm, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước, tạo được nhiều cơ hội về việc làm cho người lao động. Nước cũng đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, du lịch, dịch vụ trong thời gian qua.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế, xã hội, công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tài nguyên nước của Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, khó có thể giải quyết được trong một sớm một chiều mà trái lại đòi hỏi phải mất nhiều thời gian, nguồn lực cùng với sự nỗ lực tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là ý chí chính trị và quyết tâm của Đảng và Nhà nước. Một số thách chính đó là hơn 2/3 lượng nước trên các hệ thống sông của Việt Nam được hình thành từ ngoài lãnh thổ, trong khi cơ chế, chính sách hợp tác, chia sẻ nguồn nước giữa các quốc gia chưa hiệu quả.
Tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước vẫn tiếp tục gia tăng trong khi cơ chế kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm, các hoạt động chặt phá rừng chưa hiệu quả, cộng với tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước đang ngày càng rõ rệt hơn. Thiên tai bão, lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, ngập úng, nước biển dâng... đang ngày càng gia tăng cả về mức độ nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng. Tăng trưởng kinh tế không ngừng dẫn đến nhu cầu nước của các ngành kinh tế-xã hội tăng lên trong khi tình trạng sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả vẫn còn phổ biến cộng với nguồn nước tiếp tục bị suy thoái, cạn kiệt và cơ sở hạ tầng về tài nguyên nước lạc hậu.
Đặc biệt, sức ép về dân số và chất lượng cuộc sống tiếp tục gia tăng trong một vài thập kỷ tới. Dự báo năm 2020 dân số Việt Nam tăng lên khoảng 98 triệu người và sẽ ổn định ở mức 120 triệu người trong vòng 2-3 thập kỷ sau nữa. Sự gia tăng dân số và yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống sẽ cần nhiều nước hơn cho phát triển sản xuất và dân sinh là thách thức lớn nhất đối với sự phát triển và quản lý tài nguyên nước quốc gia. Bên cạnh đó, mâu thuẫn, tranh chấp trong sử dụng nước tiếp tục gia tăng; nguồn lực đầu tư cho quản lý, bảo vệ tài nguyên nước không đáp ứng yêu cầu; hệ thống pháp luật về tài nguyên nước còn thiếu đồng bộ và việc triển khai thực hiện chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
* Quản lý hiệu quả để phát triển bền vững
Ở Việt Nam, tầm quan trọng của tài nguyên nước đối với phát triển bền vững đã có sự chuyển biến rõ rệt cả về nhận thức và hành động. Theo đó đã đặt ra yêu cầu phải quản lý bền vững và hiệu quả hơn các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Quản lý tài nguyên nước phải theo phương thức tổng hợp, sử dụng đa mục tiêu và phải gắn với các tài nguyên thiên nhiên khác - một phương thức quản lý tài nguyên nước đã được áp dụng thành công ở một số nước trên thế giới, ngày càng chứng tỏ là một phương thức quản lý hiệu quả đang được nhiều quốc gia nghiên cứu áp dụng.
Quản lý tài nguyên nước theo phương thức tổng hợp và toàn diện đã trở thành quan điểm nhất quán của Việt Nam, được thể hiện xuyên suốt trong Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước năm 2006: “Quản lý tài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp và thống nhất trên cơ sở lưu vực sông. Cơ cấu sử dụng nước phải phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Tài nguyên nước phải được phát triển bền vững; khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa mục tiêu. Phải coi sản phẩm nước là hàng hoá; sớm xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện xã hội hoá các hoạt động bảo vệ, phát triển nguồn nước và cung ứng dịch vụ nước”.
Đối với tài nguyên nước, khái niệm phát triển bền vững cũng đã được đề cập và giới thiệu từ những năm 2000. Phát triển bền vững tài nguyên nước là việc sử dụng tài nguyên nước để đáp ứng nhu cầu của con người ở giai đoạn hiện tại, nhưng phải đảm bảo nhu cầu cần thiết trong tương lai để phát triển kinh tế có hiệu quả, đồng thời đảm bảo an sinh xã hội và môi trường bền vững. Để hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và bền vững về môi trường thì yếu tố con người là quyết định trong việc phát triển tài nguyên nước như thế nào. Nếu tính tài nguyên nước của Việt Nam theo tổng lượng nước trung bình hàng năm là 9.600m3/người theo Báo cáo đánh giá ngành nước Việt Nam vào 2008 năm, thì cao hơn mức trung bình của thế giới (7.400m3/người/ năm).
Nhưng nếu chỉ tính lượng nước sản sinh nội tại thì tài nguyên nước của chúng ta chỉ đạt 4.400m3/người, thấp hơn mức trung bình của thế giới nhiều. Sở dĩ tính theo tài nguyên nước nội sinh vì lượng nước ngoại sinh chủ yếu trên đất Trung Quốc và các quốc gia khác như Lào, Thái Lan, Campuchia , Myanmar (sông Mê Công) hoặc thượng nguồn sông Cả và sông Mã trên đất Lào. Lượng nước này ta không kiểm soát được cả về số lượng và chất lượng. Ngoài ra, mùa khô ở Việt Nam lại quá dài, từ 6 đến 8 tháng trong khi nhu cầu nước (chủ yếu cho tưới với nhu cầu nước chiếm 75-80%) lại chủ yếu vào mùa khô. Các dòng sông lớn ở Việt Nam đều đã được xây dựng các hồ chứa thủy điện và thủy lợi. Do việc xây dựng các công tình này trước khi có khái niệm phát triển bền vững nên nhiều hồ chứa chỉ chủ yếu hoạt động với mục tiêu nâng cao hiêu quả kinh tế (hiệu quả phát điện, hiệu quả cấp nước) mà chưa chú ý đến yếu tố bảo vệ môi trường.
Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang đứng trước những thách thức rất lớn khi các nước thượng nguồn đã và đang có kế hoạch xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Công. Nếu các đập này cũng vận hành chủ yếu với mục đích kinh tế (phát điện) và các yếu tố phát triển bền vững không được đề cập (chủ yếu là yếu tố xã hội và môi trường sinh thái) thì Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở hạ lưu sông Mê Công phải gánh chịu những hậu quả không lường trước được. Hiện Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đã và đang phối hợp chặt chẽ với Ủy hội Mê Công quốc tế nhằm xác định rõ các tác động do quá trình phát triển tài nguyên nước nói chung, phát triển thủy điện nói riêng ở thượng nguồn sông Mê Công nhằm tìm những giải pháp phù hợp để giảm thiểu các tác động bất lợi do quá trình phát triển này gây ra.
Mối quan hệ thượng hạ lưu trong phát triển bền vững tài nguyên nước cũng là vấn đề lớn được đề cập trong Luật Tài nguyên nước năm 2012, khi yêu cầu các hồ chứa, công trình ngăn sông phải đảm bảo xả dòng chảy tối thiểu. Theo quan điểm trong Luật này, dòng chảy tối thiểu có yêu cầu cao hơn dòng chảy môi trường nhằm cải thiện mối quan hệ giữa phát triển tài nguyên nước với bảo vệ môi trường và hài hòa lợi ích các bên trong chia sẻ chung nguồn nước. Suy thoái chất lượng nước cũng đồng nghĩa với phát triển thiếu bền vững.
Suy thoái chất lượng nước cũng đồng nghĩa với phát triển thiếu bền vững. Ngoài việc ô nhiễm do quá trình phát triển công nghiệp, đô thị hóa và vấn đề vệ sinh môi trường đô thị chưa đáp ứng yêu cầu về môi trường thì phát triển các ngành dùng nước thiếu đồng bộ, thiếu cách nhìn nhận phát triển bền vững cũng dẫn đến những hậu quả làm cho các dòng sông bị suy thoái. Chẳng hạn như nhiều con sông nội địa trở thành nơi chứa nước thải mà thiếu nguồn nước để pha loãng như sông Cà Lồ, Tô Lịch, sông Tích, sông Đáy, sông Thị Nghè... dẫn đến tình trạng các sông này đang chết dần.
Quản trị tài nguyên nước phải được ưu tiên hàng đầu để phát triển tài nguyên nước một cách bền vững, trong bối cảnh các công trình khai thác sử dụng nước lớn gần như đã được xây dựng xong thì việc tập trung vào công tác quản trị tài nguyên nước phải được ưu tiên hàng đầu. Trong đó các biện pháp phân bổ, chia sẻ hợp lý nguồn tài nguyên nước hạn chế giữa các vùng, giữa các hộ dùng nước, giữa thượng lưu và hạ lưu cần được đặc biệt chú ý.
Các quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước nhằm tìm các biện pháp giảm thiểu hợp lý cho từng khu vực và lĩnh vực cũng cần được tiến hành sớm đối với những khu vực được xem là vùng ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng. Việc sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm cần được áp dụng ở tất cả các ngành, đặc biệt là ngành dùng nước nhiều như nông nghiệp. Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích phát triển các công nghệ sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và thực hiện người dùng nước phải trả tiền, người gây ô nhiễm phải trả phí... Các công cụ quản lý tài nguyên nước như quy hoạch phân bổ và Quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước cần sớm được thực hiện, nhằm đưa ra các biện pháp quản lý hiệu quả và thiết thực cho từng vùng và từng lưu vực sông.