Tin môi trường - Cổng thông tin về môi trường Việt Nam

Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn

Khu vực cửa sông Hồng và hiểm họa biến đổi khí hậu

(09:21:41 AM 10/10/2014)
(Tin Môi Trường) - Cửa sông Hồng là vùng đất ngập nước có đa dạng sinh học cao nhất miền Bắc, cũng là khu vực nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng tiêu cực do BĐKH.

Theo GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc ĐHQGHN, so sánh mức độ tổn thương theo kịch bản phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2015 và 2020, có 4 vùng cơ bản. Theo đó không chỉ những vùng thấp bị ảnh hưởng mà ngay cả vùng cao tập trung ở một số khu bảo tồn có đa dạng sinh học cao ở đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng cũng có nguy cơ cao.

70% diện tích vùng bị nguy hiểm

Mới đây các nhà khoa học đã đưa ra công bố về mức độ tổn thương của khu vực sông Hồng, miền Bắc Việt Nam trước nguy cơ biến đổi khí hậu (BĐKH).

Theo đó phương pháp đánh giá mức độ tổn thương tài nguyên, môi trường mới được áp dụng tại khu vực cửa sông Hồng được kế thừa từ các phương pháp và chỉ tiêu đánh giá mức độ tổn thương đới ven biển do các tai biến liên quan đến biến đổi khí hậu như dâng cao mực nước biển của Cục Địa chất Mỹ và Ủy ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu, chỉ số tổn thương đới ven biển của Pethick,J.B and Crooks có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Sau khi nghiên cứu, các nhà khoa học cho rằng, yếu tố gây tổn thương tới tài nguyên, môi trường cửa sông Hồng được xác định gồm 2 nhóm chính, đó là: Các tai biến liên quan đến biến đổi khí hậu như xói lở, bồi tụ, biến động luồng lạch, bão và lũ, nước biển dâng cao và ô nhiễm môi trường;

Các yếu tố tác động mạnh sau tai biến địa chất như các vật chất tạo thành địa chất ven biển như bùn, bùn cát, cát, đá gốc và nhóm hoạt động dân sinh như nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp, giao thông vận tải biển...

Kết quả đánh giá mức độ nguy hiểm do tai biến từ các yếu tố tự nhiên và hoạt động sản xuất của con người được phân vùng nghiên cứu. Theo đó, có tới 70% diện tích vùng nghiên cứu nằm trong mức độ nguy hiểm trung bình và tương đối cao phân bố ở thị trấn Tiền Hải, Ngô Đồng và các xã ven biển Hồng Thuận, Giao Nhân, Giao Than (Thái Bình), Cồn Thủ, Cồn Vành và Vườn Quốc gia Xuân Thủy.

Vùng có mức độ nguy hiểm đặc biệt cao chiếm 16% tại khu vực ven biển như Giao An, Giao Hưng (Nam Định), Hồng Tiến (Thái Bình), phía Nam cửa sông Ba Lạt và vùng có mức độ tổn thương thấp chiếm khoảng 14%.

Điều đáng lưu ý là các tai biến có mức độ nguy hiểm không giống nhau đối với hệ sinh thái khác nhau như dâng cao mực nước biển yếu tố nguy hiểm nhất đối với hệ sinh thái nước lợ, còn đất ngập nước ngọt (vùng cửa sông phía đất liền) bị tác động mạnh của nước dâng do bão, mưa lũ hay thay đổi độ mặn...


Khu vực cửa sông Hồng và hiểm họa biến đổi khí hậu

Nhiều hộ tại Tiền Hải, Thái Bình điêu đứng vì ngao chết hàng loạt do môi trường ô nhiễm, khí hậu biến đổi.


Phải tìm cách ‘trốn chạy khôn ngoan’

Theo giáo sư Mai Trọng Nhuận, dựa vào các dự báo, tại các địa phương cần quy hoạch "chủ động", tìm kiếm các “giải pháp mềm” để giảm mức độ tổn thương, là cách "trốn chạy khôn ngoan".

Theo đó về khả năng ứng phó tự nhiên, hệ sinh thái rừng ngập mặn được đánh giá là có khả năng ứng phó tự nhiên cao nhất do có khả năng chống chịu, giảm thiểu tác động của các yếu tố gây tổn thương như xói lở, bão lũ, ô nhiễm môi trường, đồng thời có khả năng phục hồi cao sau những tác động.

Trên cơ sở đánh giá mức độ tổn thương và tự ứng phó cũng như phân tích nguyên nhân gây tác động nguy hiểm tới tài nguyên môi trường của vùng, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu vùng được nhiên cứu như như tăng cường hiệu lực của pháp luật, chính sách quản lý dựa vào cộng đồng, quản lý tổng hợp đới bờ với việc quy hoạch vùng để sử dụng bền vững tài nguyên với nhiều mô hình kinh tế bền vững.

Đồng thời cần xây dựng các trạm quan trắc và giám sát tài nguyên đất ngập nước; khôi phục và mở rộng rừng ngập mặn, xây dựng và vận hành hệ thống quan trắc tác động của biến đổi khí hậu và các đập thủy điện trên sông Đà...

Phần cứng là giải pháp công trình như xây dựng và triển khai các trạm quan trắc, mô hình dự báo biến động tài nguyên, môi trường, mức độ tổn thương theo các kịch bản biển đổi khí hậu, nước biển dâng với độ tin cậy cao…

 Phần mềm là giải pháp phi công trình tức là cần vận dụng linh hoạt từ đánh giá, dự báo, quy hoạch đến tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân.

Dựa vào đặc thù vùng kinh tế-sinh thái và mức độ tổn thương, quy hoạch sử dụng bền vững tài nguyên-môi trường nên chia thành 6 vùng với các ưu tiên phát triển phù hợp. Ví dụ vùng ven biển Móng Cái-Đồ Sơn ưu tiên hệ thống cảng biển, du lịch sinh thái như các dự án phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái đặc biệt (rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển...).

Vùng ven biển đồng bằng sông Hồng (Đồ Sơn-cửa Lạch Trường) nuôi trồng thủy sản, phục hồi, bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn và đất ngập nước cửa sông, cải tạo hệ thống đê biển, phòng chống xói lở và bão lũ.

Theo giáo sư Mai Trọng Nhuận, đây không phải là vấn đề mới nhưng cần phải có tầm nhìn xa, trong đó có vấn đề quy hoạch sử dụng đất nói riêng, sử dụng tài nguyên và phát triển kinh tế-xã hội nói chung.

“Các quy hoạch phải dựa vào đánh giá và dự báo mức độ tổn thương để chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng như các tai biến, hơn là bị động như hiện nay”, GS Nhuận nói.

Các nhà khoa học cũng cho rằng hai vùng đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng rất quan trọng với phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh lương thực nhưng bị tổn thương cao nhất, bởi vậy phải có chiến lược thích ứng khi nước biển dâng cao.

Giải pháp quan trọng nhất là quy hoạch sử dụng đất, quản trị thích ứng phù hợp với các kịch bản dâng cao mực nước biển ở mức 0,5m và 1m. Với tầm nhìn chiến lược và triết lý ứng phó khôn ngoan với biến đổi khí hậu, quỹ đất phải để dành cho việc di dân vùng đất thấp, sẽ bị ngập, cũng như phát triển các công trình liên quan …

Về khoa học công nghệ, với phương châm “tiên đoán nhằm ngăn chặn và chủ động thích ứng,” Việt Nam cần đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp cứng và mềm để hạn chế tác động bất lợi, tận dụng cơ hội nếu có của biến đổi khí hậu. Tinh hoa truyền thống của văn minh trị thủy, văn minh lúa nước của người Việt Nam cũng cần được nghiên cứu và vận dụng, ứng phó phù hợp từng vùng, miền về điều kiện tự nhiên, thiên tai, trình độ phát triển kinh tế -xã hội, nguồn lực.

Bích Ngọc