Tin môi trường - Cổng thông tin về môi trường Việt Nam

Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn

Cần quan tâm sửa đổi quy định chính sách về đánh giá tác động môi trường

(16:13:24 PM 20/01/2014)
(Tin Môi Trường) - TMT giới thiệu toàn văn bài tham luận "HÀI HÒA LỢI ÍCH GIỮA CÁC BÊN LIÊN QUAN TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN: CÁC VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM TRONG QUÁ TRÌNH SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH CHÍNH SÁCH VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG của PGS.TS Trần Cát- Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường TP Đà Nẵng tại hội thảo "Sự tham gia của báo chí, cộng đồng, các tổ chức xã hội trong thúc đẩy công khai thông tin, tham vấn ý kiến và giám sát môi trường đối với các dự án phát triển" vừa tổ chức ở TP Đà Nẵng.

Ảnh minh họa IE

 

I. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ CÁC BÊN LIÊN QUAN


Khái niệm "phát triển bền vững" (PTBV) xuất hiện lần đầu tiên vào những năm 70 của thế kỷ trước do Mauric Strong – Giám đốc điều hành chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc lúc đó đề xướng. Nó xuất phát từ việc nghiên cứu về bảo vệ và phát triển rừng, làm thế nào để có thể bảo vệ và khai thác rừng một cách hiệu quả nhất, kinh tế nhất, hợp lý nhất mà không làm cạn kiệt tài nguyên rừng, làm cho rừng có thể tiếp tục phát triển ổn định, không bị kiệt quệ, chẳng những các thế hệ hôm nay có thể khai thác tối đa theo yêu cầu mà cả cho các thế hệ mai sau cũng vậy.


Năm 1980 trên cơ sở đó, IUCN đề xuất khái niệm “phát triển bền vững” với nội dung đơn giản là: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường và các hệ sinh thái".


Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo Our Common Future của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland):  Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..."


Theo Tổ chức ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): “Phát triển bền vững là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế hệ trong tương lai”.


Theo Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 2005 của Việt Nam: “PTBV là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.”


Như vậy, dù mới phát sinh hay khi đã được bổ sung và hoàn thiện,  thì khái niệm PTBV đã bao gồm các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường, tức là phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các bên liên quan, các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau cùng thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội – môi trường .


Khi tiến hành các hoạt động phát triển con người đã tác động mạnh mẽ vào thiên nhiên, can thiệp trực tiếp và gây ra những biến đổi rất nghiêm trọng đối với các hệ thống thiên nhiên như làm cạn kiệt tài nguyên, suy thoái môi trường … Có thể nói : Phát triển luôn đi kèm với môi trường, phát triển sản sinh ra nhiều vấn đề phức tạp về môi trường sống của con người và thiên nhiên. Các vấn đề về môi trường hiện nay đều bắt nguồn từ phát triển. Nhưng quy luật của sự sống không cho phép chúng ta ngừng phát triển. Ngừng phát triển đồng nghĩa với sự tụt hậu và tự hủy diệt. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển và môi trường là chấp nhận sự phát triển nhưng phải biết phát triển một cách khôn ngoan, phát triển mà không gây ra những tác hại đến môi trường. Đó chính là phát triển bền vững mà nhân loại đang hướng đến.

 
Thông thường, các hoạt động phát triển lớn, có tổ chức đều thông qua các dự án đầu tư, xuất phát từ các mục tiêu phát triển. Từ các dự án phát triển các chủ dự án phải vạch ra được các hành động để thực hiện. Khi thực hiện dự án sẽ gây ra các biến đổi cũng như các tác động đến tài nguyên và môi trường. Các tác động đó có thể là tích cực hay tiêu cực. Vì vậy cần có sự đánh giá mà ta gọi là đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của các dự án để có thể phát huy được những tác động tích cực đồng thời hạn chế, ngăn ngừa và giảm thiểu các tác động tiêu cực.

      
II. ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC (ĐMC), ĐÁNH GIÁ TÁC  ĐỘNG MÔI TRƯỜNG (ĐTM) VÀ CAM KẾT BVMT (CKBVMT)


1. Các định nghĩa về ĐMC và ĐTM:     

 
-  ĐMC là việc phân tích, dự báo các tác  động đến môi trường của dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển bền vững.


-  ĐTM là việc phân tích dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó        


2. Các quy định về ĐMC, ĐTM và CKBVMT ĐTM được thực hiện chính thức ở Việt Nam theo Luật BVMT năm 1993 trước đây và Luật BVMT năm 2005 hiện nay:
      
Luật BVMT 2005 đã dành cả chương III quy định về đối tượng, nội dung của báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, báo cáo ĐTM và CKBVMT.      

 
Nghị định 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ  phân các dự án phát triển (dưới đây gọi tắt là dự án) thành 3 loại phải thực hiện các quy định về ĐMC, ĐTM và CKBVMT.      


Theo Phụ lục I của NĐ 29/2011 - Danh mục các dự án chiến lược, quy hoạch phát triển phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược chi tiết được phân làm 3 loại A, B và C.  Loại A là các báo cáo ĐMC thực hiện dưới hình thức lồng ghép trong báo cáo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Loại B là các báo cáo ĐMC thực hiện dưới hình thức các báo cáo riêng. Loại C thuộc về các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch khác theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
      

Theo Phụ lục II NĐ 29/2011 – Có đến 146 loại dự án khác nhau phải lập báo cáo ĐTM.   


Phụ Lục III NĐ 29/2011 – Quy định danh mục các dự án thuộc trách nhiệm thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM của Bộ TN&MT.


3. Mục đích, ý nghĩa, chức năng, nhiệm vụ, tác dụng và lợi ích  của ĐTM:


ĐTM có mục đích là cung cấp thêm những tư liệu khoa học cần thiết giúp cho cơ quan xét duyệt các dự án đầu tư đưa ra được những quyết định đúng đắn hơn, toàn diện hơn, có thể thực hiện hay không thực hiện dự án đó về mặt môi trường; tạo cơ hội để phối hợp, liên kết các điều kiện nhằm giảm nhẹ các tác động có hại đến môi trường; tạo ra phương thức  để cộng đồng tham gia đóng góp ý kiến công khai vào các dự án đầu tư xây dựng hoặc hòa giải giữa các bên; tạo ra công cụ pháp lý buộc chủ dự án phải thực hiện các cam kết về BVMT khi thực hiện dự án. Mục đích trước tiên và trực tiếp của ĐTM là để bảo vệ môi trường và góp phần làm cho dự án được phát triển bền vững trong quá trình triển khai thực hiện .


ĐTM có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét và quyết định các dự án đầu tư. Có thể coi việc ĐTM là công cụ quản lý môi trường, hỗ trợ cho việc thực hiện các dự án theo hướng bảo đảm hiệu quả kinh tế, khuyến khích công tác quy hoạch tốt hơn, tránh được những sai lầm mà sau này phải khắc phục rất tốn kém; làm cho việc sử dụng tài nguyên thận trọng hơn, hợp lý hơn, hạn chế được suy thoái và ô nhiễm môi trường, góp phần thiết thực vào việc phát triển bền vững.


Về mặt khoa học, ĐTM là một ngành khoa học vì đáp ứng đủ 3 tiêu chí là đối tượng nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.  Đối tượng nghiên cứu ở đây có thể là đối tượng gây tác động và đối tượng bị tác động. Nội dung nghiên cứu rất rộng rãi, liên quan đến nhiều ngành khoa học khác nhau: đất, nước, không khí, sinh học … Phương pháp nghiên cứu cũng rất đa dạng, từ đơn giản như điều tra, khảo sát … cho đến phức tạp và rất phức tạp như các phương pháp mô hình toán, lý… Hiện nay, thế giới đang ứng dụng ba bộ môn khoa học trong thực tiễn để xem xét các dự án: Đánh giá dự báo các tác động đến môi trường (ĐTM); đánh giá dự báo các tác động đến xã hội (ĐTX) và đánh giá dự báo các  tác động đến sức khỏe con người (ĐTS).           


ĐTM chỉ có thể làm được chức năng, nhiệm vụ là dự báo các tác động của dự án đến môi trường tự nhiên chứ chưa thể dự báo các tác động đến xã hội (ĐTX) và tác động đến sức khỏe con người (ĐTS) và cũng chưa thể dự báo được các tác động về kinh tế (ĐTK).        


Tác dụng trước tiên và lớn nhất của ĐTM là để lựa chọn địa điểm của dự án phù hợp với các điều kiện tự nhiên (địa lý, địa chất, khí tượng thủy văn …) và sức chịu tải của các thành phần môi trường tự nhiên như đất, nước, không khí, sinh vật … tại địa điểm dự kiến của dự án. Sau đó là tạo ra cơ sở để đưa ra các biện pháp khả thi nhằm phát huy các tác động tích cực và phòng ngừa, giảm nhẹ, giảm thiểu các tác động tiêu cực của dự án; đề ra được chương trình, kế hoạch phù hợp để quản lý và giám sát môi trường trong quá trình triển khai thực hiện dự án .


ĐTM có lợi ích rất to lớn. Nếu không làm tốt công tác ĐTM, không thấy được những tác động xấu, nhất là các tác động không thể đảo ngược được có thể xảy ra khi thực hiện dự án để chủ động đề ra được những biện pháp phòng ngừa, ứng phó hữu hiệu ngay từ đầu thì sẽ phải tốn kém rất nhiều tiền của để khắc phục hậu quả, thậm chí là không thể khắc phục được. Trên thực tế ở nước ta, đã có nhiều dự án lớn đã làm tốt công tác ĐTM, chỉ ra được những tác động xấu để có biện pháp khắc phục và phương án thay thế như dự án đường Trường Sơn qua rừng Cúc Phương, dự án khai thác bô-xit đang thực  hiện ở Tây Nguyên….


III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM TRONG QUÁ TRÌNH SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH CHÍNH SÁCH VỀ ĐTM Ở VIỆT NAM


1. Có những quan niệm khác nhau về công cụ ĐTM:


Hiện đang có hai cách nhìn nhận khác nhau về ĐTM: một là coi nhẹ tác động của ĐTM, hai là thần thánh hóa việc ĐTM.  Cả hai cách nhìn này đều không đúng.


Người coi nhẹ tác dụng của việc ĐTM thì cho rằng: việc ĐTM chỉ là thủ tục hành chính một  cách hình thức, không cần thiết, không có cũng được, muốn bỏ đi cho đơn giản để đỡ tốn kém và mất thì giờ…. Trên thực tế ở Đà Nẵng nhiều dự án, nhiều công trình lớn đã xây dựng và đưa vào vận hành tốt nhưng không có ĐTM cũng chẳng sao (các quy hoạch khu dân cư trước đây, đường Nguyễn Tất Thành, cầu Thuận Phước …). Thuộc về cách nhìn nhận này còn có một số người bên ngoài tỏ ra coi trọng việc ĐTM nhưng chỉ thể hiện trên lời nói hoặc trên giấy tờ cho hợp thời vì trên thế giới phát triển người ta làm thì mình cũng làm thôi. Nguyên nhân một phần là do  chưa thực sự hiểu hết được mục đích, ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc ĐTM trong BVMT vì sự phát triển bền vững. Phần khác là do chất lượng, hiệu quả của việc ĐTM hiện nay còn thấp. Cách nhìn nhận này có thể dẫn tới những hậu quả như:chưa thực sự có quyết tâm đầu tư nguồn lực cho ĐTM; làm ĐTM theo kiểu vuốt đuôi (theo NĐ29:2011/NĐ-CP thì hầu hết các dự án phải trình thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM sau khi đã được chọn/xác định/phê duyệt địa điểm thực hiện, như vậy thì việc ĐTM chẳng có giá trị gì); làm giảm nhiệt tình của những người đang trực tiếp làm công tác ĐTM, ảnh hưởng đến chất lượng của các báo cáo ĐTM .


Ngược lại, quan điểm thần thánh hóa việc ĐTM thì cho rằng, ngoài các tác động đến môi trường tự nhiên, ĐTM còn phải giải quyết tất cả các tác động khác đến môi trường xã hội (ĐTX), đến sức khỏe con người (ĐTS) và đến cả nền kinh tế (ĐTK). Thực ra, ngoài việc xem xét các tác động đến môi trường vật lý, ĐTM khó và không thể giải quyết được các vấn đề về ĐTX, ĐTS và đặc biệt là các vấn đề chuyên sâu về kinh tế học, bởi vì mỗi một vấn đề nêu ra trên đây đều có đối tượng nghiên cứu khác nhau, nội dung nghiên cứu khác nhau và phương pháp nghiên cứu cũng có thể khác nhau. Theo quan điểm này thi khó mà thực hiện được các báo cáo ĐTM hoàn chỉnh nếu không tập hợp đủ đội ngũ chuyên gia nhiều chuyên ngành liên quan. Đây là quan điểm cực đoan, ôm đồm và bất khả thi.    


 Sự khác nhau về quan niệm đối với công tác ĐTM nêu trên đang là một cản trở, khó khăn cho Việt Nam trong việc học tập kinh nghiệm, trao đổi và hợp tác quốc tế về môi trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay . Trong quá trình sửa đổi chính sách quy định về ĐTM thì đây là vấn đề nhận thức đầu tiên cần được thống nhất để tránh những khuynh hướng tả hữu cực đoan, bảo đảm được giá trị thật của việc ĐTM.


2. Có sự nhầm lẫn giữa ĐTM và đánh giá rủi ro (ĐRR)


 Có rất nhiều người cho rằng việc đánh giá rủi ro (ĐRR) mà thực chất là dự báo rủi ro khi thực hiện các dự án là nhiệm vụ của ĐTM . Khi nói đến rủi ro tức là nói đến các việc xấu, cực xấu có thể xảy ra. Đành rằng trong các báo cáo ĐTM có mục phân tích các tác động đến môi trường, trong đó có tác động tiêu cực (xấu) và có thể coi chúng như các rủi ro. Tuy nhiên, không thể nhầm lẫn giữa ĐTM và ĐRR, bởi vì, ĐRR là bộ môn khoa học khác với khoa học về dự báo tác động nói chung và với ĐTM nói riêng. Trên thế giới, ĐRR được coi là nhiệm vụ của chủ dự án và là một trong các nội dung quan trọng của dự án . Chủ dự án bao giờ cũng phải tính toán, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện các dự án. Ví dụ: khi Nhà nước quyết định cho tiến hành dự án khai thác bô-xit ở Tây Nguyên thì khả năng rủi ro xảy ra sự cố vỡ hồ chứa bùn đỏ như thế nào, khả năng rủi ro về mặt an ninh quốc phòng đối với cả đất nước, cả dân tộc ra sao…; nếu xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận thì rủi ro dò rỉ phóng xạ ra sao, tác hại đến mức nào, tại sao nhiều nước tiên tiến trên thế giới như CHLB Đức từ chối năng lượng hạt nhân …; hoặc các rủi ro có thể xảy ra đối với hàng loạt các dự án thủy điện như dự án Thủy Điện Đồng Nai 2, thủy điện Sơn La, thủy điện Sông Tranh 2, v.v… Những rủi ro có thể xảy ra đó thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm vì là tổng đầu tư. 


3. Chất lượng và hiệu quả ĐTM còn thấp so với yêu cầu Trên thực tế, rất nhiều báo cáo ĐTM có chất lượng thấp, sao chép của nhau, nhất là các dự án cùng loại hình như nhau. Hiệu quả của việc ĐTM cũng không đạt yêu cầu nếu sau khi báo cáo ĐTM được duyệt mà không có sự kiểm tra chặt chẽ thường xuyên của các cơ quan kiểm soát ô nhiễm nhà nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng và hiệu quả của ĐTM còn thấp, không đạt yêu cầu như: chưa thật coi trọng đúng mức việc ĐTM; thiếu các nguồn thông tin cần thiết; thiếu các chuẩn mực, các hướng dẫn kỹ thuật cần thiết; thiếu cách tiếp cận tổng hợp trong ĐTM; năng lực và trình độ của cán bộ thực hiện còn yếu; kinh phí dành cho việc ĐTM còn quá ít so với yêu cầu…   


Trong các nguyên nhân trên thì nguyên nhân làm cho chất lượng và hiệu quả của việc ĐTM thấp, không đạt yêu cầu xét về mặt khoa học là thiếu cách tiếp cận tổng hợp. Muốn cho việc ĐTM có chất lượng, làm cho dự án phù hợp với chính sách môi trường và phát triển bền vững, thế giới thường tiếp cận theo 4 Ps: Policies – Plans – Programs – Projects (Chiến lược/Chính sách –Quy hoạch/ Kế hoạch – Chương trình – Dự án). Chúng ta chỉ mới làm ĐTM theo một P, nhưng ở khâu cuối cùng (Project) nên thường vất vả, phiến diện và không đạt yêu cầu. Đối với các dự án lớn thì vấn đề đặt ra là phải tiếp cận tổng hợp, tiếp cận từ trên xuống để nắm bắt được tất cả những khía cạnh môi trường từ trong chiến lược, chính sách đến quy hoạch, kế hoạch, rồi mới đến chương trình phát triển để có những cân nhắc trước khi có quyết định thực thi chúng. Nếu không thì chỉ có thể giải quyết hậu quả của những ý đồ phát triển tổng thể hoặc chỉ có khả năng ngăn  ngừa và giảm thiểu các tác động môi trường đối với dự án cụ thể mà thôi.


4. ĐTM làm theo chỉ đạo của cá nhân, không tuân theo trật tự quy định  Có rất nhiều dự án, lẽ ra theo luật định là phải làm báo cáo ĐTM trước và sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt bởi cơ quan chức năng rồi mới tiến hành các bước tiếp theo như: chuẩn bị mặt bằng, thi công xây dựng … Thế nhưng, trên thực tế, nhiều dự án đã triển khai xây dựng rồi mới làm báo cáo ĐTM. Khi trình bày báo cáo trước Hội đồng thẩm định thì có ý kiến chỉ đạo rằng, đây là dự án đã được Anh A, Anh B … quyết định cho triển khai rồi, đề nghị Hội đồng thông qua cho đủ thủ tục (!). Cách làm như vậy là sai luật, không minh bạch, đôi khi chất lượng báo cáo ĐTM kém, không đạt  yêu cầu nhưng nhiều thành viên hội đồng thẩm định buộc phải thông qua. Đối với những dự án nhỏ thì vấn đề nêu trên sẽ gây ra ít tác hại cho cộng đồng hơn nhưng đối với những dự án lớn cỡ như thủy điện Sơn La, Đồng Nai 2, Điện hạt nhân Ninh Thuận, Bô-xit Tây Nguyên v.v… thì sẽ gây ra những tác hại khôn lường cho cả một dân tộc, vì vậy cần chấm dứt ngay những lệnh vô hình như vậy!.

IV. HÀI HÒA LỢI ÍCH GIỮA CÁC BÊN LIÊN QUAN TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN


 Để có thể giải quyết được mối quan hệ giữa các bên một cách hài hòa trong quá trình phát triển, cần phải giải quyết một loạt vấn đề có tính chất vĩ mô và vi mô như chiến lược, chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, đến chương trình và dự án cụ thể. Trong phạm vi báo cáo này xin chỉ đề cập đến vấn đề cộng đồng chịu tác động bởi các dự án và vấn đề tham vấn cộng đồng dối với các dự án mà thôi.       


1. Cộng đồng là gì:

 

Cộng đồng được hiểu là một nhóm người sống trong một khu vực địa lý nhất định . Trong phạm vi thực hiện ĐTM, cộng đồng được xác định như toàn bộ những người và tổ chức có khả năng bị tác động trực tiếp và gián tiếp bởi dự án bao gồm người và tổ chức sinh sống, làm việc, người có quyền sử dụng đất… 


 Đại diện cộng đồng là cá nhân hoặc nhóm người hoặc tổ chức được cộng đồng đề xuất làm đại diện. Tuy nhiên, khi đề cập đến cộng đồng cần thiết phải tiếp cận đến tất cả các đối tượng khác nhau trong cộng đồng hơn là việc chỉ tiếp cận đại diện cộng đồng.
      
 2. Tham vấn cộng đồng trong ĐTM


 Tham vấn cộng đồng trong ĐTM là việc ghi nhận sự tham gia của cộng đồng trong quá trình lập, thẩm định báo cáo ĐTM, là sự trao đổi thông tin giữa chủ dự án,  giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thẩm định báo cáo ĐTM của dự án với các bên có liên quan đến dự án.


 Các bên liên quan có thể là: các cá nhân, tổ chức (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, tổ chức đào tạo, tổ chức phi chính phủ, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức nghề nghiệp, v.v…)  làm chủ dự án, cơ quan tư vấn lập báo cáo ĐTM, UBND cấp xã và người dân chịu tác động của dự án, cơ quan thẩm định … bị tác động bởi dự án đầu tư hoặc có mối quan tâm đến dự án đầu tư.


 Mục đích của việc làm này là nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhóm đối tượng chịu tác động từ dự án, đồng thời hỗ trợ quá trình ra quyết định đối với các dự án phát triển.
       
 3 . Cơ sở pháp lý liên quan đến tham vấn các bên liên quan – tham vấn ý kiến cộng đồng trong ĐTM .


 Hiện nay, việc tham vấn các bên liên quan và tham vấn ý kiến cộng đồng trong quá trình lập báo cáo ĐTM được quy định chính thức trong các văn bản pháp luật sau đây:   

 

- Khoản 8, Điều 20, Luật Bảo vệ môi trường;       

    

- Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/04/2011 của Chính phủ quy định về ĐMC, ĐTM và CKBVMT có các điều:


 + Điều 5: Mục 1, khoản e: Đối với các dự án phải báo cáo ĐMC chi tiết dưới hình thức báo cáo riêng và Mục 2, khoản d: Đối với các dự án phải báo cáo ĐMC chi tiết lồng ghép trong báo cáo chiến lược, quy hoạch đều có điều khoản: “Tham vấn các bên liên quan trong quá trình thực hiện ĐMC”.


  + Điều 7, mục 7, khoản c quy định “Lấy ý kiến của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các chuyên gia liên quan”.


  + Điều 14: “Tham vấn ý kiến trong quá trình lập báo cáo ĐTM”,    

 

+ Điều 15: “Cách thức tiến hành và yêu cầu về việc thể hiện kết quả tham vấn ý kiến trong báo cáo ĐTM”.


+ Điều 18, mục 4, khoản c: “Tham vấn ý kiến cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án”


 + Điều 22: Công khai thông tin về dự án đã được phê duyệt báo cáo ĐTM … để nhân dân biết, kiểm tra, giám sát. 


 + Điều 35, mục 3. : Đối với các dự án thuộc loại CKBVMT quy định trách nhiệm của chủ dự án là phải : Hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp mọi thông tin cần thiết có liên quan để cơ quan quản lý nhà nước về BVMT tiến hành các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra trong quá trình thực hiện dự án, hoạt động sản xuất, kinh doanh.


 - Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT  ngày 18/7/2011  của Bộ Tài nguyên và Môi trường   [6]  quy định chi tiết một số điều của Nghị định 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 quy định về ĐMC, ĐTM và CKBVMTcó  quy định 5 nội dung về tham vấn ý kiến trong quá trình lập báo cáo ĐTM.
      

 4. Những hạn chế trong tham vấn cộng đồng đối với các báo cáo ĐTM ở nước ta trong thời gian qua:


Trong quá trình thực hiện báo cáo ĐTM, sự tham gia của cộng đồng là một yêu cầu cơ bản để có thể thấy được sự tán thành hoặc không tán thành của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án đối với việc đặt dự án tại địa phương, cũng như để bổ sung những tác động tiêu cực, các giải pháp bảo vệ môi trường mà báo cáo ĐTM có thể chưa đề cập đến. Thực tế, cộng đồng có liên quan đến các quá trình chuẩn bị của dự án có thể sẽ đóng góp nhiều ý kiến có ích
cho dự án.


Mục tiêu chính của tham vấn cộng đồng là: i) Cung cấp cho cộng đồng các thông tin cần thiết, để hiểu rõ hơn về dự án, những tác động tiêu cực của việc thực hiên dự án và những biện pháp giảm thiểu nhằm hạn chế tác động tiêu cực của dự án;  ii)  Thông báo cho cộng đồng những lợi ích dự kiến đạt được khi dự án được thực hiện; iii) Nhận được ý kiến đóng góp của những người bị ảnh hưởng và chính quyền địa phương nơi thực hiện dự án để nghiên cứu xử
lý và phản hồi.


 Trong thời gian qua, công tác tham vấn cộng đồng trong quá trình lập, thẩm định báo cáo ĐTM đã được thực hiện theo các văn bản pháp lý hiện hành. Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn nhiều bất cập, hạn chế như:


 - Mang nặng tính hình thức, do các bên liên quan chưa nhận thức được ý nghĩa, sự cần thiết, mục tiêu và chưa biết được cách thức tham vấn ý kiến của cộng đồng.


 - Thành phần cộng đồng được quy định tham vấn trong ĐTM còn quá hạn chế, hiện mới chỉ dừng ở hai tổ chức là UBND và UBMTTQ cấp Phường/ xã nơi thực hiện dự án. Việc quy định tham vấn như vậy là chưa đủ, bởi việc thực hiện một dự án phát triển kinh tế – xã hội thường gây ra tác động trên phạm vi rộng và phức tạp, trong khi UBND và UBMTTQ  cấp Phường/ xã chỉ là hai trong số nhiều nhóm đối tượng liên quan đến dự án. Hơn nữa, tham vấn ĐTM các dự án đòi hỏi phải có thông tin, kiến thức rộng thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề, trong khi đó UBND và UBMTTQ cấp xã/ phường không thể bao quát, am hiểu hết. Mặt khác, việc hạn chế tham vấn cộng đồng về ĐTM trong phạm vi UBND và UBMTTQ Phường/ xã là không phù hợp với nguyên tắc và chủ trương huy động sự tham gia rộng rãi, tích cực của cộng đồng vào nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững mà Đảng và Nhà
nước đã đề ra.


- Quy định thời hạn 15 ngày dành cho hoạt động tham vấn cộng đồng (điểm d, Điều 15 Chương 3, Nghị định số 29/2011/NĐ-CP) là quá ngắn, không phù hợp với thực tế, bởi việtham vấn cần được tiến hành từng bước, cụ thể với việc trình bày về tất cả những tác động mà dự án có thể mang lại cũng như trao đổi chi tiết về các phương hướng, kế hoạch khắc phục các tác động tiêu cực. Nếu UBND và MTTQ phường/xã không làm kịp, không có văn bản trả lời thì xem như đã nhất trí với các biện pháp BVMT của chủ dự án. Quy định này rất bất lợi cho cộng đồng địa phương.  Thực tế công tác tham vấn cộng đồng về ĐTM ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy, hoạt động tham vấn cần nhiều thời gian hơn rất nhiều. Ví dụ: để tham vấn cộng đồng Báo cáo ĐTM Dự án Thủy điện Sơn La đã phải kéo dài trên 10 năm; tham vấn Báo cáo ĐTM Dự án Thủy điện Tuyên Quang và Dự án đường Hồ Chí Minh cũng phải làm trong hơn 5 năm v.v…. Và với một dự án có quy mô cấp trung bình, việc tham vấn cộng đồng ít nhất cũng cần nhiều tháng mới có thể thực hiện được một cách nghiêm túc. Điều đáng lưu ý là với khoảng thời gian ngắn 15 ngày, ngay cả những chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực đánh giá báo cáo ĐTM cũng sẽ gặp không ít khó khăn, chưa kể tới các UBND cấp phường/ xã và đại diện cộng đồng dân cư vốn là những người khó có thể hiểu hết được các
tác động tiềm ẩn của dự án.


- Theo quy định hiện hành thì trách nhiệm tổ chức tham vấn cộng đồng được giao cho UBND xã/phường thay vì các chủ dự án. Chủ dự án không có trách nhiệm tổ chức tham vấn mà chỉ báo cho UBND Phường, xã yêu cầu tham vấn. UBND Phường, xã có trách nhiệm tổ chức tham vấn và báo cho dự án biết để tham dự.  Điều này cũng rất không hợp lý. Theo quy định chung được áp dụng phổ biến trên thế giới, chủ dự án phải chịu trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động tham vấn cộng đồng, bao gồm cả kinh phí, nhân lực, phương tiện cần thiết, với mục đích đảm bảo chất lượng báo cáo ĐTM để báo cáo này có thể được thông qua. Tuy nhiên, quy định về tham vấn cộng đồng báo cáo ĐTM của các dự án đầu tư phát triển ở Việt Nam lại giao cho UBND cấp xã thực hiện. Việc UBND cấp xã phải tự chi trả kinh phí tổ chức tham vấn (nếu có) trong vòng 15 ngày sau khi nhận được văn bản của chủ dự án là điều hết sức phi lý bởi tham vấn báo cáo ĐTM là việc của chủ dự án, UBND cấp xã và các tổ chức cấp xã chỉ tham gia tham vấn giúp cho chủ dự án có được báo cáo ĐTM đúng đắn, phù hợp mà thôi.


- Không còn tham vấn báo cáo ĐTM mà chỉ còn tham vấn bản báo cáo tóm tắt các hạng mục đầu tư, các vấn đề MT và các giải pháp BVMT của dự án do chủ dự án cung cấp.


 - Ngoài ra, việc thực hiện tham vấn công đồng trong quá trình lập ĐTM của Việt Nam có nhiều nét không tương đồng với việc thực hiện của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là đối với các dự án có nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài qua các ngân hàng thế giới.


 5. Những đề xuất:


 - Cần tham khảo cách thức tham vấn cộng đồng của các Tổ chức quốc tế trong quá trình lập, thẩm định báo cáo ĐTM để nhanh chóng hòa nhập được với cộng đồng quốc tế.


 - Cần nghiên cứu xây dựng “Hướng dẫn tham vấn ý kiến cộng đồng trong quá trình lập, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường” theo các quy định của luật pháp hiện hành, phù hợp với điều kiện của địa phương và có tham khảo cách thức tham vấn cộng đồng của các Tổ chức quốc tế.


  - Cần mở rộng thêm các đối tượng được tham vấn ý kiến trong quá trình ĐTM. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, cộng đồng cần được tham vấn có thể bao gồm nhiều nhóm đối tượng hơn, như: i) Các UBND cấp xã, đại diện các tổ chức nhân dân cấp xã; ii) Cáccơ quan quản lý môi trường của các cấp huyện/quận, tỉnh/thành phố, khu vực lớn; các cơ quan quản lý lưu vực sông tại địa bàn có các tác động môi trường của dự án phát triển; iii) Các tổ chức xã hội nghề nghiệp đã được nhà nước giao nhiệm vụ tư vấn, phản biện xã hội về tài nguyên và môi trường; iv) Các tổ chức chính trị, xã hội dân sự khác có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi về tài nguyên và môi trường của nhân dân trên địa bàn hoạt động của họ; v) Các cơ quan thông tin, báo chí có phạm vi hoạt động trên địa bàn và lĩnh vực liên quan đến dự án; vi) Công dân Việt Nam có khả năng và nguyện vọng đóng góp vào nhiệm vụ ĐTM dự án; vii) Tổ chức quốc tế, khu vực, nước ngoài; cá nhân nhà khoa học nước ngoài có khả năng và nguyện vọng đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ môi trường, phát triển bền vững ở Việt Nam.


 - Cần phải quy định lại người đứng ra tổ chức tham vấn ý kiến cộng đồng phải là các chủ dự án chứ không phải là UBND và UBMTTQ phường/xã. Các chủ dự án phải chịu trách nhiệm tổ chức việc tham vấn ý kiến cộng đồng đối với các báo cáo ĐTM và phải chịu trách nhiệm chi trả các khoản chi phí liên quan đến công tác tổ chức tham vấn ý kiến cộng đồng đó.


 - Cần có hình thức tổ chức tham vấn riêng biệt đối với những hộ dân trực tiếp chịu tác động của dự án như bị giải tỏa trắng, phải di dời nhà cửa của mình tìm nơi sinh sống mới; phải có biện pháp để bảo đảm rằng họ sẽ có cuộc sống ít ra cũng phải bằng hoặc tốt hơn hiện nay khi thực hiện dự án;  phải công khai, minh bạch trong việc giải tỏa đền bù khi thu hồi đất của dân, chỉ thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng theo Luật đất đai, không vì lợi ích nhóm mà thu hồi đất của người này giao cho người khác hoặc tổ chức này cho tổ chức khác. Đây là vấn đề thực tế đã xảy ra ở Đà Nẵng làm cho người dân bất bình, khiếu kiện vượt cấp kéo dài, gây bất ổn về chính trị. Trên thế giới, vấn đề giải phóng mặt bằng, giải tỏa dân cư đang sinh sống bình yên để thực hiện các dự án phát triển là vấn đề hết sức quan trọng, được ưu tiên quan tâm giải quyết và phải được giải quyết một cách thỏa đáng, công bằng và minh bạch. Đề nghị trong ĐTM đối với các dự án của ta hiện nay cần nhấn mạnh thêm nhiều hơn nữa về vấn đề này. 


 - Việc tham vấn cộng đồng cần được tiến hành tiếp tục ở các giai đoạn sau thẩm định báo cáo ĐTM, kể cả thẩm vấn định kỳ khi dự án đã đưa vào vận hành và đang hoạt động để cộng đồng có thể góp phần vào việc kiểm soát các hành động thiếu trách nhiệm, lách luật, gây ô nhiễm môi trường của những chủ dự án vì lợi nhuận gây ra, bảo đảm phát triển bền vững.

PGS.TS Trần Cát- Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường TP Đà Nẵng