Tin môi trường - Cổng thông tin về môi trường Việt Nam

Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn

Duy trì bền vững nghề khai thác ghẹ xanh ở Kiên Giang

(08:27:57 AM 30/10/2013)
(Tin Môi Trường) - Cùng với Câu lạc bộ Ghẹ Vasep và Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Kiên Giang, WWF-Việt nam hành một chương trình nhằm xác định và giải quyết các vấn đề cần ưu tiên trong công tác quản lý nghề khai thác ghẹ xanh ở Kiên Giang để duy trì bền vững lâu dài nguồn lợi tự nhiên có giá trị này. Bà Nguyễn Thị Diệu Thúy, quản lý chương trình Khai thác Thủy sản của WWF-Việt Nam đã chia sẻ bức tranh toàn cảnh về vấn đề này.

 

-Tầm quan trọng của nghề khai thác ghẹ xanh từ tự nhiên đối với nền kinh tế quốc gia và các cộng đồng địa phương đang tham gia khai thác?

 

-Khai thác ghẹ là một nghề khai thác nhỏ so sánh với nhiều nghề khác như khai thác cá ngừ, khai thác cá, tôm bằng lưới kéo...Tuy nhiên, về mặt xuất khẩu, ghẹ mang lại giá trị kim ngach lớn thứ hai trong số các sản phẩm thủy sản khai thác từ tự nhiên, chỉ sau cá ngừ. Khai thác ghẹ ở Việt nam chủ yếu là khai thác ghẹ đỏ và ghẹ xanh. Ghẹ đỏ dược khai thác rải rác khắp cả nước trong khi ghẹ xanh được khai thác tập trung chủ yếu ở tỉnh Kiên Giang. Tổng giá trị xuất khẩu ghẹ năm 2010 là 110 triệu USD.   

 

Nghề khai thác ghẹ xanh ở Kiên Giang hiện tại ước tính có khoảng 20,000 ngư dân tham gia đánh bắt ghẹ rải ra ở tất cả các huyện ven biển nhưng chủ yếu tập trung ở Hà Tiên và Phú Quốc. Ngư dân làm nghề ghẹ chủ yếu sử dụng lưới rê và bẫy. Phần lớn trong số họ là ngư dân nghèo, khai thác gần bờ quy mô nhỏ và khai thác thủy sản là sinh kế chính của họ.

 

-Các tác động hiện tại của nghề đối với môi trường và viễn cảnh trong tương lai nếu không có can thiệp?

 

-Nghề khai thác ghẹ xanh sử dụng chủ yếu là lưới rê và bẫy. Nghề lưới rê thường khai thác xa bờ, mắt lưới lớn nên ít tác động đến môi trường. Trong khi đó, khai thác bằng bẫy sử dụng mắt lưới rất nhỏ nên tỷ lệ ghẹ nhỏ bị khai thác rất nhiều, ảnh hưởng lớn đến sức sinh sản và lượng bổ sung đàn hàng năm. Đặc biệt là từ khi có ngư cụ lồng bái quái (lú, lờ) của Trung Quốc du nhập vào, lượng ghẹ nhỏ bị khai thác tăng lên rất nhiều. Ghẹ nhỏ được sử dụng để làm thức ăn cho nuôi ốc hương nên dù không xuất khẩu hay bán cho các nhà hàng tiêu dùng tại chỗ được, nhưng vẫn bị khai thác nhiều.  Do tình trạng khai thác quá mức này, năng suất khai thác và chất lượng ghẹ liên tục giảm trong những năm gần đây. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ghẹ đã lo lắng đến một tương lai phải đóng cửa hoạt động vì không còn ghẹ để sản xuất.

 

-WWF-Việt Nam và các đối tác Việt Nam đã có sáng kiến gì để giúp Việt Nam cải thiện vấn đề này? Vai trò của từng bên như thế nào? Các mục tiêu chính?

 

-Trên qui mô toàn cầu, WWF, tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế, đang có chương trình hỗ trợ các nghề cá  phát triển bền vững, sử dụng tiếp cận từ thị trường làm đòn bẩy, cụ thể là chứng nhận sinh thái MSC. Các nghề cá đạt được chứng nhận này sẽ có cơ hội duy trì và phát triển nguồn lợi, hệ sinh thái liên quan bền vững, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu ở các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật,...

 

 

Để duy trì bền vững lâu dài nguồn lợi tự nhiên có giá trị này, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Kiên Giang (Sở NN&PTNT) và Câu lạc bộ ghẹ VASEP với sự hỗ trợ từ  WWF, đã tiến hành một chương trình nhằm xác định và giải quyết các vấn đề cần ưu tiên trong công tác quản lýnghềkhai thác ghẹ xanh ở Kiên Giang. Mục tiêu chính của chương trình là cải thiện nghề khai thác ghẹ xanh để có thể đạt được các tiêu chuẩn của chứng nhận MSC. Các mục tiêu chính của chương trình là:

 

1.      Duy trì một trữ lượng ghẹ bền vững về mặt sinh thái.

 

2.      Đảm bảo sự phân bố công bằng giữ những người sử dụng chung nguồn lợi.

 

3.      Cung cấp các chương trình sinh kế thay thế cho các ngư dân phải chuyển đổi nghề nghiệp 

4.      Giảm thiểu tối đa các tác động lên hệ sinh thái   

 

5.      Đảm bảo việc quản lý nghề ghẹ hiệu quả và có sự tham gia của các bên

 

WWF và Câu lạc bộ ghẹ VASEP là đơn vị tài trợ về kinh phí cho các hoạt động như đánh giá nguồn lợi, đánh giá tác động lên hệ sinh thái và các loài bị khai thác không chủ ý. Sở NN&PTNT Kiên Giang sử dụng nguồn kinh phí của nhà nước để thực hiện các hoạt động thực thi pháp luật, h trợ sinh kế cho những ngư dân cần phải chuyển đổi nghề nghiệp.

 

-Các kết quả đã đạt được của nỗ lực này là gì?

 

- Hiện tại dự án mới ở giai đoạn đầu của quá trình cải thiện. Các kết quả chính chủ yếu là xây dựng được một kế hoạch hành động 5 năm cho nghề ghẹ, xây dựng kế hoạch quản lý và đánh giá sản lượng ghẹ khai thác được.

 

-Doanh nghiệp và người dân được hưởng lợi gì từ dự án?

 

-Dự án thành công sẽ giúp cho nghề cá duy trì và phát triển nguồn lợi, hệ sinh thái liên quan bền vững, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu ở các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật,... Nguồn lợi bền vững, thị trường bền vững chính là sinh kế bền vững cho ngư dân và kinh doanh bền vững cho doanh nghiệp.  

 

- FIP và MSC là gì?

 

Hiện nay, rất nhiều thị trường mong muốn hoặc yêu cầu sản phẩm có chứng nhận MSC. Với sự cam kết của rất nhiều tập đoàn bán buôn và bán lẻ ở các thị trường xuất khẩu lớn như châu Âu, Mỹ, Nhật về việc sẽ ưu tiên các sản phẩm có chứng nhận MSC, nghề cá các nước sẽ có động lực để xin cấp chứng nhận. Hàng chục tập đoàn bán buôn bán lẻ sản phẩm thủy sản lớn trên thế giới, trong đó có Wal-Mart, Loblaw, Sysco, ASDA, Metro  đã cam kết ưu tiên sản phẩm có chứng nhận MSC.

 

-Cũng cần phải nói thêm rằng, nhu cầu về sản phẩm khai thác bền vững nói chung và sản phẩm MSC nói riêng xuất phát từ nhu cầu của những người tiêu dùng ở các nước phát triển quan tâm tới vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi hải sản. Mong muốn này cũng được nhiều tổ chức, doanh nghiệp trên thế giới ủng hộ như các tập đoàn bán buôn bán lẻ kể trên. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, tại nhiều nước như Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Na uy, Đan Mạch, Bỉ, Nam Phi, Hông Kông…, tổ chức WWF đã tiến hành các chiến dịch truyền thông về hải sản nhằm thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm thủy sản được khai thác bền vững và giảm việc sử dụng sản phẩm được khai thác không bền vững. Chiến dịch này có thể giúp người tiêu dùng cân nhắc hoặc ít nhất là ý thức được khi lựa chọn các sản phẩm của nghề cá.

 

Một trong các xu hướng quản lý hoạt động khai thác thủy sản trên thế giới hiện nay là sử dụng nhãn sinh thái gắn cho các sản phẩm được khai thác bền vững, thân thiện với môi trường. Chứng nhận MSClà một trong số những nhãn sinh thái đó. Ý tưởng của nhãn sinh thái này là sử dụng hướng tiếp cận từ thị trường để khuyến khích ngư dân khai thác bền vững. Chứng nhận được sử dụng để phân biệt các sản phẩm được khai thác bền vững trên thị trường. Tuy nhiên chứng nhận này có các ưu điểm hơn hẳn các chứng nhận cùng loại là nó đang được người tiêu dùng ở các nước phát triển, các nhà nhập khẩu các mặt hàng thủy hải sản quan tâm tới phát triển bền vững ưu tiên.

 

-Chương trình chứng nhận MSC là một chương trình do Hôi đồng Biển Quốc tế (MSC) tiến hành nhằm tìm kiếm và quảng bá các nghề cá (khai thác từ tự nhiên) khai thác bền vững.

 

-Ở các nước đang phát triển, hầu hết các nghề cá đều chưa thể thỏa mãn ngay được 3 nguyên tắccủa chứng nhận MSC mà cần phải có một số thay đổi nhất định để có thể phát triển bền vững hơn, đáp ứng được yêu cầu của chứng nhận MSC. FIP là từ viết tắt của Fisheries Improvement Project (Dự án cải thiện nghề cá). Tuy nhiên, các dự án FIP của WWF đều lấy các nguyên tắc, tiêu chuẩn của chứng nhận MSC làm mục tiêu, có nghĩa là các dự án FIP của WWF là nhằm giúp nghề cá có thể đạt được chứng nhận MSC.

 

- Lộ trình của FIP và MSC đối với ngành khai thác ghẹ xanh là gì? Viễn cảnh nào cho Việt Nam nếu không đạt được chứng chỉ FIP và sau đó là MSC?


-Dự án FIP Kiên Giang cho ghẹ xanh dự kiến triển khai trong 5 năm từ năm 2012 đến 2016. Sau 2016, nếu FIP được triển khai tốt, dự kiến nghề ghẹ sẽ được đánh giá toàn diện theo tiêu chuẩn của chứng nhận MSC. Nếu đạt, nghề ghẹ sẽ nhận được chứng nhận MSC.

 

Hiện tại các tập đoàn nhập khẩu thủy sản ở Mỹ và EU cam kết với chứng nhận MSC vẫn ưu tiên nhập các sản phẩm thủy sản chưa có chứng nhận MSC nhưng đang trong chương trình FIP. Trong trường hợp FIP không thành công hoặc nghề cá không lấy được chứng nhận MSC, nghề cá sẽ đối mặt với nguy cơ mất thị phần từ các nhà nhập khẩu này. Nhưng quan trọng hơn cả là nghề cá đối mặt với sự khai thác không bền vững dẫn đến suy kiệt nguồn lợi, nghề khai thác bị mất, ngư dân mất sinh kế, doanh nghiệp mất nguồn cung sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã tỏ ý lo ngại về tương lai sản xuất của họ nếu ngư dân tiếp tục khai thác tận diệt như hiện tại. Điều này đúng với nhiều nghề cá chứ không chỉ riêng nghề ghẹ.  

-WWF-Việt Nam và các đối tác cam kết hỗ trợ việc đạt chứng chỉ MSC đối với ghẹ xanh như thế nào sau khi chương trình FIP kết thúc?

 

-Thường là sau khi nghề cá đạt được chứng nhận, sản phẩm có nhiều thuận lợi hơn về thị trường, vì vậy ngư dân và doanh nghiệp với sự hỗ trợ của đơn vị quản lý nghề cá (các Sở NN&PTNT, Bộ NN&PTNT) sẽ phải đứng ra tổ chức chuỗi giá trị, liên kết giữa các bên hưởng lợi để thống nhất sự đóng góp cho việc duy trì chứng nhận. WWF và MSC sẽ hỗ trợ việc quảng bá, mở rộng thị trường cho sản phẩm tới những nhà nhập khẩu quan tâm sản phẩm khai thác bền vững.   

 

-Bà có thể miêu tả về một trong những sáng kiến truyền thông-thay đổi hành vi Ngân hàng ghẹ?

 

-Ngân hàng ghẹ là một mô hình quỹ tín dụng nhỏ vốn quay vòng. Người dân tham gia mô hình được vay vốn, trả vốn lại dần trong 1 thời gian nhất định (10 tháng hoặc 1 năm). Lãi suất là ghẹ mang trứng họ đánh bắt được, mang thả vào lồng ghẹ để cho ghẹ đẻ hết trứng ra. Ban quản lý sẽ lấy ghẹ đã đẻ đem bán để duy trì ngân hàng. Mỗi tháng người dân trả 1 phần vốn lại, gộp lại sẽ được vốn cho 1 người mới vay. Cụ thể có 30triệu cho 10 hộ vay, mỗi hộ 3triệu, trả hàng tháng 300 ngàn và 5 con ghẹ xanh mang trứng. Như vậy mỗi tháng sẽ có 1 hộ mới được vay và 50 con ghẹ trứng được thả vào của bè ngân hàng. Một số người không được vay vốn cũng thả ghẹ trứng vào ngân hàng nhưng họ lấy lại ghẹ sau khi đã đẻ. Như vậy có thể thấy ý thức người dân cũng được nâng lên, ngư dân cũng phấn khởi vì có thêm tiền sửa thuyền, lưới…

 

Trong số các nghề khai thác thủy hải sản từ tự nhiên, khai thác ghẹ là nghề lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ sau nghề khai thác cá ngừ. Hiện đang thu hút khoảng 20,000 ngư dân, hoạt động đánh bắt ghẹ xanh tại tỉnh Kiên giang đang đặt ra vấn đề về việc bảo vệ môi trường,duy trì nguồn lợi thủy sản và  sinh kế của chính bà con nơi đây.

NGUYỄN PHƯƠNG NGÂN ( WWF-Việt Nam)