“Tôi đố anh tìm được nơi nào trên dải đất hình chữ S này có loài cua mà mọi bộ phận trên cơ thể đều trắng đục như sữa, thậm chí khi đun sôi cũng không biến sắc như cua làng Vâng”, ông Dương nói.
Kéo khách ra khu vườn ngay cạnh nhà trồng toàn bương tre, ông Dương chỉ tay vào chi chít những lỗ tròn như cổ tay người và nói: “Đấy chính là nơi ở của chúng. Những cái hang này sâu khoảng 3 m, 5 m, thậm chí 7 m".
Giống cua vốn sợ người và quen sống ở nước, nhưng kỳ lạ là khoảng đất bãi nhà ông Dương và các hộ lân cận nằm xen lẫn khu dân cư, người qua lại rất nhiều. Xung quanh không hề có sông suối hay kênh mương nào nên nguồn nước rất khan hiếm.
Cần câu cua được làm từ một cành cây thẳng, trên ngọn có 2 lá non. Trong ảnh ông Duyên đang câu cua trinh nữ.
Nghe khách thắc mắc đất đai cằn cỗi thế thì cua sống bằng cách nào, ông Dương bảo: “Chắc chắn nó phải đào hang sâu đến tận nơi có mạch nước ngầm rồi. Còn thức ăn thì tạp nham lắm: giun, dế, côn trùng, bọ gậy, thậm chí cả rong rêu”.
Có lẽ tập tính ẩn mình sâu trong lòng đất, nơi ánh sáng không thể len lỏi tới, là nguyên nhân chính dẫn đến hình hài “bạch tạng” của loài cua này. Và người ta đặt cho nó hàng chục cái tên độc đáo như: cua sữa, cua trinh nữ, cua trắng, cua đất… Ở xóm Vâng chỉ có 2 bãi đất cua đục lỗ ở là bãi Báy và bãi Bương.
Do cua ở sâu trong lòng đất nên người ta phải dùng cần dụ nó ra ngoài rồi mới bắt. Nhắc đến những người câu cua đất giỏi nhất thôn Vâng thì không thể thiếu cái tên Bùi Văn Duyên. Ở tuổi gần 50, kỹ nghệ câu cua của ông khiến ngay cả những người bản địa cũng phải trầm trồ thán phục.
Thấy khách muốn đi câu cùng, ông Duyên lôi ra chiếc áo màu xanh đậm đưa cho khách giải thích: “Chú phải cởi cái sơ mi trắng ra, mặc áo này vào thì tôi mới cho đi câu cua cùng. Vì khi nhìn thấy áo trắng cua rất sợ, nó biết ngay là con người đang tiến đến nên chui tọt xuống hang sâu”.
Theo ông Duyên, muốn câu được nhiều cua thì trước tiên phải có chiếc cần tốt. Có thể dùng bất cứ cành cây nào, chỉ cần nó không cong queo, độ đàn hồi vừa phải và có lá non đầu ngọn để cua tưởng con mồi đang chuyển động là được. Chiều dài lý tưởng của chiếc cần dao động 80-100 cm, tuỳ theo chiều cao của người câu.
Xâu cua của ông Duyên thu được sau một giờ câu. Ảnh: Nông nghiệp Việt Nam.
Lần này, loại cây mà “kỳ tài câu cua thôn Vâng” dùng làm cần là ngọn cỏ hôi mọc đầy vệ đường. Sau khi đã tuốt bỏ toàn bộ lá già, chỉ để lại hai chiếc lá non phía trên cùng, ông gọi con gái mang cuốc ra để đào giun. “Cua rất nhạy với mùi tanh nên phải bắt con giun, con nhái chà xát vào lá non của cần câu để dụ nó ra khỏi hang nhanh hơn”, ông bật mí.
Bắt đầu câu cua đất từ khi lên 10 tuổi, hai bãi cua trong thôn có bao nhiêu lỗ, nằm ở vị trí nào ông Duyên đều kể vanh vách. Đây là điều kiện tối quan trọng để câu thành công. Do miệng hang thường bị che khuất bởi cỏ cây và bụi rậm, nếu cứ đi phăm phăm, thấy có lỗ mới dừng lại thì lúc ấy cua đã bò xuống đáy.
Mỗi lần tiến đến gần một lỗ cua, ông Duyên co người, rón rén bước chân thật khẽ. Nếu cua đang ở gần miệng hang, ông co người thật thấp, chân phía sau trùng xuống, chân còn lại thả lỏng như tư thế của vận động viên điền kinh trước vạch xuất phát. Sau đó, ông từ từ đưa cần câu ra, vảy cổ tay rung cần để chiếc lá trên ngọn chuyển động dụ cua đến. Cua tiến đến đâu, cần được kéo lùi tới đó. Khi cua cách miệng hang khoảng 20 cm, ông Duyên từ từ đưa tay còn lại về phía trước rồi nhanh như cắt vồ trúng nó.
Những lần thuận lợi, ông chỉ mất 2 phút là tóm được cua. Nhưng có khi chúng ra một chút lại thụt vào, phải nhử đi nhử lại 15 phút mới thành công. Câu cua cần chọn thời điểm thích hợp, ví dụ sau khi trời mưa, hang bị ngập nước, cua ngộp thở nên bò lên kiếm ăn rất nhiều. Vào mùa đông, chúng lấp miệng hang ngủ nên không ai đi câu.
Khoảng thời gian lý tưởng nhất để “thu hoạch” loài vật này là từ tháng 4 đến 8. Con to nhất mà ông Duyên bắt được bằng cả mu tay người lớn nhưng bây giờ chủ yếu là cua to bằng 3 ngón tay. Mất khoảng một giờ đi câu, ông Duyên đã cầm lủng lẳng trên tay xâu cua hơn 20 con. Ông bảo, chỉ cần bấy nhiêu là đủ một bữa ra trò rồi, không câu thêm nữa. Sau khi rửa sạch, vợ ông Duyên cho vào nồi hấp cách thuỷ, bên dưới có lá sả, ớt, và một số loại lá rừng rất thơm ngon.
Đúng như Chủ tịch xã Bùi Văn Dương nói, ngay cả khi chín, cua vẫn nguyên màu trắng đục. Vỏ cua mỏng, vị thịt ngọt, thơm và săn chắc. Ngoài hấp, nấu canh rau ngót, dân thôn Vâng còn dùng cua làm nguyên liệu làm mắm chua. Cua được giã nhuyễn, sau đó trộn lẫn thính (làm từ bột ngô rang), muối, hành, ủ trong vại sành khoảng nửa tháng, đến bữa ăn lấy ra hâm lại chấm rau luộc.
Chủ tịch xã Bùi Văn Dương tâm sự, ở đây đất đai khô hạn nên cây lúa không thể phát triển. Đời sống của người dân dựa cả vào bắp ngô, cây mía, củ măng, nhưng ngô, mía lại xuống giá nên rất bấp bênh.
Cả xã Ngọc Sơn có 2.496 người, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 50% với mức thu nhập bình quân khoảng 9,6 triệu một người một năm. Vào mùa giáp hạt, nỗi lo thiếu đói lại chờ chực. Trong mâm cơm thường ngày, rau, dưa vẫn là chính, còn thịt cá vài ba hôm mới xuất hiện một lần.
Cả xã Ngọc Sơn có 2.496 người, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 50% với mức thu nhập bình quân khoảng 9,6 triệu một người một năm. Vào mùa giáp hạt, nỗi lo thiếu đói lại chờ chực. Trong mâm cơm thường ngày, rau, dưa vẫn là chính, còn thịt cá vài ba hôm mới xuất hiện một lần.
Thế nên hai bãi cua đất ở thôn Vâng giống như “niêu cơm Thạch Sanh” giúp dân làng bổ sung dưỡng chất. “Từ đời ông, đời cha tôi đã có hai bãi cua này. Đến giờ vẫn duy trì được là bởi người dân không bắt cua vì đồng tiền, khi nào bắt đủ bữa ăn là quay về. Nhiều người vùng khác lân la đến thuê người câu cua với giá cao, thế nhưng không một ai đi. Nhiều khi tỷ phú cũng không mua được đâu anh ạ”, ông Dương nói.