Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn
Chăn nuôi thuận lợi
Ông Triệu Trí Việt cho biết: Gia đình ông đã nuôi lợn từ nhiều năm nay, trên 10 năm trước, gia đình ông đã nuôi lợn Móng Cái. Từ tháng 1/2012, Sở Khoa học Công nghệ Bắc Kạn có đề tài phát triển và bảo tồn giống lợn địa phương, gia đình ông được chọn để thực hiện đề tài này. Mới đầu gia đình ông Việt nuôi 10 lợn nái giống, 2 lợn đực (là giống lợn rừng đã được thuần hóa). Sau 6 tháng cả 10 con lợn nái đều đẻ. Giống lợn địa phương mỗi lứa chỉ đẻ 4-5 con, như vậy đàn lợn của nhà ông Việt có thêm gần 50 lợn con. Tất cả số lợn này, ông Việt để nuôi lợn thịt. Từ đầu năm 2012 đến nay đàn lợn nái đã đẻ 3 lứa. Ngoài số lợn thịt mà ông Việt đã bán vào cuối năm 2012, đến nay tổng đàn lợn của gia đình ông đã lên đến gần 70 con (cả lợn giống và lợn thịt). Ông Việt cho biết: Nuôi lợn ta lai lợn rừng theo cách bán hoang dã này rất thích. Vì giống lợn này khỏe, ít bệnh, thức ăn cũng dễ. Giống lợn này dễ ăn, từ cây chuối, ngô, đu đủ, khoai, sắn, dong riềng… cho ăn sống, hoặc cho vào máy thái nhỏ rồi trộm với cám ngô, cám gạo, không cần nấu. Nuôi lợn này tuyệt đối không dùng cám công nghiệp, cám tăng trọng, sẽ làm mất tính thích nghi với môi trường tự nhiên, lợn sẽ dễ ốm, dễ nhiễm bệnh. Do nuôi theo phương pháp bán hoang dã nên cần phải có đất rộng để cho lợn chạy nhảy. Ông Việt đã khoanh toàn bộ đất vườn, đồi nhà, cùng với việc trồng rừng để tạo bóng mát, kết hợp với trồng các loại cây làm thức ăn như chuối, ngô, sắn, đu đủ, dong riềng. Hiện nay trong trang trại của ông, ngoài việc phải mua thêm cám ngô, cám gạo, còn lại các thức ăn thô đểu đủ làm thức ăn cho đàn lợn.
Lợi ích kép
Mục tiêu của Dự án xây dựng mô hình nuôi lợn địa phương theo hình thức bán hoang dã quy mô nông hộ tại thị xã Bắc Kạn nhằm bảo vệ và nhân rộng đàn lợn địa phương đang ngày càng khan hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Ngoài ra, dự án còn nhằm phát triển chăn nuôi giống lợn này theo hướng hàng hóa chất lượng cao, đem lại thu nhập cho người dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội. Nuôi lợn theo phương thức bán hoang dã cũng sẽ tạo ra sản phẩm đặc sản, phù hợp với trình độ và tập quán của người dân địa phương trong sản xuất, chăn nuôi.
Ông Nguyễn Kim Dương, Giám đốc Trung tâm ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ Bắc Kạn cho biết: Đơn vị đã xây dựng được 5 mô hình chăn nuôi lợn địa phương theo phương thức bán hoang dã. Ban đầu, mỗi hộ gia đình được cấp (theo dạng đối ứng 50/50) 2 lợn đực và 10 lợn cái. Sau hơn một năm đàn lợn phát triển tốt, đã tạo được 336 lợn con. Đây là giống lợn khỏe, chịu nắng nóng và lạnh đều tốt. Chất lượng thịt ngon, được người tiêu dùng ưa chuộng, đã tạo ra một sản phẩm mang tính đặc sản địa phương.
Theo ông Triệu Trí Việt- người đã từng tham gia mô hình chăn nuôi này thì lợn nhà ông nuôi lớn đến đâu đều bán hết đến đó. Giá lợn hơi là 80.000-100 nghìn đồng/kg. So với nuôi lợn Móng Cái trước đây, thì thu nhập từ nuôi lợn địa phương theo phương thức bán hoang dã cao hơn. Tuy nhiên, do giá thành cao nên loại lợn này chủ yếu bán chạy vào những dịp lễ, tết hoặc chủ yếu cung cấp cho các nhà hàng mua làm thức ăn đặc sản, việc tiêu thụ chưa đại trà. Khi trang trại mới có ít thì việc tiêu thụ không khó, nhưng nếu phát triển nhân đàn lên, cũng ngại về "đầu ra".
Để nuôi lợn theo mô hình trang trại bán hoang dã này, người nuôi cần có kiến thức nuôi lợn nái, phải thật sự chịu khó và quan trọng nhất là hộ nông dân phải có khả năng tài chính. Vì nếu chỉ đầu tư làm chuồng trại, cũng phải cần đến 50 triệu đồng; vốn đối ứng mua giống lợn nái 1,5 triệu đồng/con, lợn đực là 4 triệu đồng/con. Như vậy, để có được 10 con nái, người nuôi phải có 15 triệu đồng, hai con đực là 8 triệu đồng nữa, cộng với tiền làm chuồng, làm hàng rào cũng phải gần 100 triệu đồng. Tuy nhiên, người dân không nhất thiết phải nuôi nhiều lợn nái ngay mà có thể nuôi từ 1 đến 2 con lúc đầu, sau đó chọn trong số lợn con để lại làm giống thêm.
Như vậy, có thể nói, nuôi lợn theo hình thức bán hoang dã thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao, ngoài ra còn đảm bảo được yếu tố bảo tồn tại chỗ nguồn gen quý và cung cấp cho thị trường một loại sản phẩm đặc sản, hợp với thị hiếu người tiêu dùng.