Tin môi trường - Cổng thông tin về môi trường Việt Nam

Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam
Hotline: 091.5203050 - 091.5203070
Email: tinmoitruong@tinmoitruong.com
Website: tinmoitruong.com.vn

Nguy cơ thiếu tài nguyên nước mặt

(00:06:21 AM 18/06/2011)
(Tin Môi Trường) - Trên phạm vi cả nước, lượng nước cần dùng năm 2000 khoảng 92,116 tỷ m3, đến năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 121,521 tỷ m3.

Trên phạm vi cả nước, lượng nước cần dùng năm 2000 khoảng 92,116 tỷ m3, đến năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 121,521 tỷ m3.

Lượng nước cần dùng cho tưới, chăn nuôi, thủy sản tăng nhanh. Năm 2000, tổng lượng nước dùng cho tưới là 76,6 x 109 m3, chiếm 84% tổng nhu cầu dùng nước, dự báo đến năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 88,8 x 109 m3.

Nước sử dụng trong sinh hoạt chiếm tỷ lệ rất nhỏ, khoảng 2% so với tổng nhu cầu, đến năm 2010 có thể tăng lên 3,088 tỷ m3.

Nếu xét chung cho cả nước, nước ta không thuộc diện thiếu nước nhưng không ít vùng và lưu vực sông đang thiếu nước và hiếm nước, như vùng ven biển Ninh Thuận - Bình Thuận, duyên hải khu vực Nam Trung Bộ, hạ lưu sông Ðồng Nai, v.v...

Theo nghiên cứu của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn Trung ương&Môi trường, nếu chặt phá 30% diện tích rừng trên lưu vực, nguồn nước mùa cạn giảm đi khoảng 2 - 3%, dòng chảy tháng lớn nhất tăng lên khoảng 1,5%.

Lượng nước mặt từ ngoài lãnh thổ chảy vào nước ta chiếm khoảng 60% tổng lượng nước của các hệ thống sông ngòi.

Do vậy, chúng ta sẽ chịu tác động mạnh mẽ và sẽ gặp khó khăn khi các nước có chung dòng sông sử dụng nước nhiều hoặc gây ô nhiễm nước đầu nguồn hay khi điều tiết dòng chảy.

Tài nguyên nước lại phân bố rất không đều giữa các vùng. Hơn 60% số nguồn nước sông tập trung ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trong khi toàn phần lãnh thổ còn lại chỉ có gần 40% số lượng nước nhưng lại chiếm tới gần 80% dân số cả nước và hơn 90% khối lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

Ðặc biệt ở Ðông Nam Bộ và lưu vực Ðồng Nai - Sài Gòn, lượng nước bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 2.900 m3/người/năm, bằng 28% so với mức trung bình của cả nước.

Bên cạnh đó, khí hậu toàn cầu nóng lên đang tác động mạnh mẽ đến tài nguyên nước.

Mức độ biến đổi mạnh nhất xảy ra ở Nam Trung Bộ và Ðông Nam Bộ. Nước biển có thể dâng cao thêm 0,3 - 1,0m và do đó nhiều vùng thấp ở Đồng bằng Sông Cửu Long, vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và ven biển Trung Bộ sẽ bị ngập trong nước biển. Hiện tượng xâm nhập mặn từ biển vào đất liền theo các dòng sông cũng ngày càng sâu, có nơi tới 10 - 20 km.

Tài nguyên nước mưa

Nước mưa trung bình hằng năm trên toàn lãnh thổ nước ta có khoảng 650 km3, khối lượng nước này trải đều trên bề mặt đất liền có lớp nước mưa dày 1.960 mm.

So với nhiều nước trên thế giới, tài nguyên nước mưa nước ta nhiều hơn khoảng 2,5 lần so với lượng mưa trung bình trái đất (800 mm) và châu Âu (789 mm). Trung bình hằng năm, mỗi người nhận được khoảng 8.125 m3 nước mưa.

Ở những miền núi cao, lượng mưa hằng năm lên tới 4.000 - 5.000 mm, như ở vùng núi phía đông bắc tỉnh Quảng Ninh, khu vực Bắc Quang của Hà Giang, vùng núi Trà My, Ba Tơ ở Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Trái lại, ở những sườn núi, thung lũng khuất gió là nơi mưa ít, lượng mưa trung bình năm dưới 1.200 mm. Khu vực ven biển ở vùng Ninh Thuận - Bình Thuận là nơi ít mưa nhất ở nước ta, lượng mưa hằng năm chỉ khoảng 500 - 600 mm.

Như vậy, lượng mưa năm ở nơi nhiều nhất gấp 10 lần lượng mưa năm ở nơi ít nhất. Hằng năm, lượng mưa lại phân phối không đều trong năm.

Có khoảng 65-90% lượng mưa tập trung trong 3 - 6 tháng mùa mưa, chỉ có 10 - 35% lượng mưa năm rơi trong 6 - 9 tháng mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4, năm ở Bắc Bộ, phần phía bắc của Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, bắc Nghệ An), Tây Nguyên và Nam Bộ cho đến tháng 9, 10 ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, tháng 10, 11 ở Tây Nguyên và Nam Bộ. Riêng ở ven biển Trung Bộ, mùa mưa xuất hiện ngắn, thường là tháng 8, 9, 11, 12.

Tài nguyên nước sông

Phần lớn tài nguyên nước sông của Việt Nam (khoảng 60%) được hình thành trên phần lưu vực nằm ở nước ngoài, trong đó hệ thống sông Mê Kông chiếm nhiều nhất.

Nếu chỉ xét thành phần lượng nước sông được hình thành trong lãnh thổ nước ta, hệ thống sông Hồng có tổng lượng dòng chảy lớn nhất, sau đó đến hệ thống sông Mê Kông và hệ thống sông Ðồng Nai.

Lượng nước sinh ra trên 1 km2 diện tích trên toàn lãnh thổ trung bình một năm khoảng 2,520 triệu m3, lượng nước này đủ cấp cho dân số hiện nay khoảng 10.440 m3/người/năm.

So với thế giới, tổng lượng nước sông của nước ta chỉ chiếm khoảng 1,95% và khoảng 6% của châu Á.

Nếu xét về mức bảo đảm nước trên 1km2 diện tích, mức bảo đảm nước của nước ta gấp tám lần so với mức bảo đảm trung bình toàn thế giới, còn mức bảo đảm nước cho mọi người chỉ lớn hơn có 1,36 lần.

Hiện nay, tổng lượng nước cần dùng chỉ chiếm khoảng 11% tổng lượng dòng chảy sông suối nước ta và tăng lên khoảng 14,6% vào năm 2010.

Đến năm 2010, nhiều tỉnh ở ven biển Trung Bộ và Tây Nguyên, tổng lượng nước cần dùng sẽ vượt tổng nguồn nước tới 1,3 - 3,6 lần.

(Theo Nhân Dân)