(Tin Môi Trường) - (Tinmoitruong.vn)-Ninh Thuận có nền nông nghiệp khá đặc thù, khả năng gây ô nhiễm nguồn nước từ các hoá chất có trong phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, từ chất thải các trang trại…; cũng như từ thói quen phóng uế và vứt rác ở bờ sông của người dân; là điều khó có thể tránh khỏi.
Ô nhiễm nguồn nước từ các hoá chất có trong phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, từ chất thải các trang trại…; cũng như từ thói quen phóng uế và vứt rác ở bờ sông của người dân; là điều khó có thể tránh khỏi ở Ninh Thuận. (Ảnh minh họa)
Ninh Thuận một tỉnh nằm ở cực Nam Trung Bộ, có lượng mưa trung bình nhiều năm chỉ đạt khoảng 700 - 1000 mm, song lượng bốc thoát hơi nước tiềm năng lại có trị số cao tới 1700 - 1800 mm. Bởi vậy, dòng chảy nước mặt được sản sinh từ mưa chỉ có khoảng hai tỉ m3 và được bổ xung khoảng một tỉ m3 từ tỉnh khác.
Theo con số thống kê, bình quân lượng nước trên toàn lãnh thổ Việt Nam có tới 25.000 m3/ha-năm, trong khi Ninh thuận chỉ có gần 8.500 m3/ha-năm. Nói chung, đây là một vùng nghèo về nước mặt, do đó cần có phương án sử dụng tối ưu nguồn nước có được và hết sức chú trọng về chất lượng của nó.
Ninh Thuận có nền nông nghiệp khá đặc thù. Về trồng trọt, chủ yếu là các loại: nho, thuốc lá, dưa hấu…; thưòng xuyên phải sử dụng phân bón hóa chất vi lượng và thuốc bảo vệ thực vật ở mức cao hơn các loại cây trồng thông thường khác. Về chăn nuôi, hệ thống các trang trại bò, dê, cừu…rất phát triển. Cho nên khả năng gây ô nhiễm nguồn nước từ các hoá chất có trong phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, từ chất thải các trang trại…; cũng như từ thói quen phóng uế và vứt rác ở bờ sông của người dân; là điều khó có thể tránh khỏi.
Bên cạnh đó, tỉnh Ninh Thuận đã và sẽ đưa vào sử dụng một số hồ chứa nước thủy lợi như: Tân Mỹ, Tân giang, Sông Trâu, Nước Ngọt, Sông Sắt, Cho Mo, Phước Trung…làm cho môi sinh thay đổi, độ phì dưỡng tăng cao đột ngột tạo điều kiện cho các loại tảo sinh trưởng nhanh tác động trực tiếp tới môi trường nước. Và trong thời gian thi công xây dựng các hồ, hàm lượng phù sa của nước sông tăng lên đáng kể do ô nhiễm chất thải rắn.
Hàng năm vào mùa mưa lũ, đặc biệt là tháng 10 và 11 thường xuất hiện những trận lũ lớn, nhiều khu vực trũng thấp tập trung dân cư đông đúc bị ngập sâu trong biển nước đầy ô nhiễm; gây ảnh hưởng tiêu cực, trực tiếp đến môi trường và sức khoẻ của nhân dân. Ngược lại về mùa cạn lượng nước thiếu hụt, mất đi khả năng tự làm sạch; cũng như do nước biển xâm nhập, một phần diện tích đất nông nghiệp bị ô nhiễm mặn.
Và còn phải kể đến, đó là sự phát triển của công nghiệp; một số hình thức khai thác, sản xuất vật lệu xây dựng, một số nhà máy chế biến nông sản, hải sản có lượng chất thải đáng kể và khả năng gây ô nhiễm nguồn nước rất cao, nếu không có biện pháp kiểm soát, quản lí chặt chẽ.
Trong thực tế kiểm soát nguồn nước, chúng ta có thể thông qua điều tra, khảo sát tại thực địa để xác định các nguồn nước thải tập trung và kiểm soát chúng. Với các nguồn thải phân tán chỉ có thể kiểm soát và hạn chế các chất thải này thông qua các biện pháp thu gom, quản lí chặt chẽ rác thải, giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân, cũng như động viên họ tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường. Và việc quản lý, bảo vệ nguồn nước muốn thực hiện được kết quả, cần phải sử dụng nhiều biện pháp tổng hợp; cần có sự tổ chức tốt dưới sự lãnh đạo của Nhà nước; cũng sự ủng hộ của cộng đồng dân cư.